Trang:Phật Lục - Trần Trọng Kim.pdf/80

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 68 —

không 空. Những thời ấy tiếng nhà Phật gọi là kiếp 劫. Do chữ kiếp-ba 圬 波 (Kalpa) gọi tắt mà thành ra.

Kiếp có ba thứ: đại-kiếp, trung-kiếp và tiểu-kiếp. Mỗi đại-kiếp có bốn trung-kiếp là: thành-kiếp, trụ-kiếp, hoại-kiếp, và không-kiếp, và mỗi trung-kiếp có hai-mươi tiểu kiếp. Vậy một đại-kiếp có bốn trung-kiếp và tám-mươi tiểu-kiếp.

Cái số-lượng[1] của các kiếp tính theo cái số-lượng của trụ-kiếp, là kiếp đã có người sinh ra ở trần-gian. Cái số-lượng ấy định như thế này: Mỗi tiểu-kiếp có hai thời là thời giảm và thời tăng. Thời giảm khởi đầu từ thọ-mệnh của người ta lâu được 84.000 năm, rồi cứ mỗi một trăm năm giảm đi một năm, giảm mãi đến khi thọ-mệnh của người ta chỉ còn có mười năm. Hết cái khoảng một trăm năm mà người ta chỉ sống có mười năm, thì sang thời tăng, nghĩa là từ đó trở đi lại cứ mỗi một trăm năm lại tăng lên một năm, tăng mãi đến khi thọ-mệnh của người ta lại lâu được 84.000 năm như lúc đầu.

Theo cái số-lượng ấy mà tính, thì:

Mỗi thời giảm hay thời tăng có: (84.000−10) × 100 = 8.399.000 năm.

Mỗi tiểu-kiếp (gồm cả thời giảm và thời tăng) có: 8.399.000 × 2 = 16.798.000 năm.

Mỗi trung-kiếp có: 16.798.000 × 20 = 335.960.000 năm.

Mỗi đại-kiếp có: 335.960.000 × 4 = 1.343.840.000 năm.

Hết một đại-kiếp là hết một tam thiên Đại-thiên thế-giới. Nhưng tam thiên Đại-thiên thế-giới này hết, thì tam thiên Đại-thiên thế-giới khác lại thành ra, cứ luân-chuyển mãi mãi như thế ở trong thời-gian.

Trong thời-kỳ thuộc về không-kiếp của đại-kiếp trước, thì thế-gian từ Sơ-Thiền Phạm-thế-thiên trở xuống là hư-không cả, sang đến thành-kiếp của Đại-kiếp sau thì các thế-giới khác lại thành-lập, khí-thế-gian 器 世 間 thành lập trước, rồi hữu-tình thế-gian 有 情 世 間 thành lập sau.


  1. Số-lượng: Cách lường tính theo số.