Trang:Nhu tay nhut trinh.pdf/14

Trang này đã được phê chuẩn.
— 15 —

Quanh hồ tinh những cát không, 295
Vào kinh lại thấy cũng đồng như đây.
Tới hồ khác, nước đầy linh láng,
Gió hiu hiu, sóng dợn nhăng nhăng.
Qua kinh hơn một ngày đàn,
Trưa thường nóng nực, tối hằng lạnh queo. 300
Port-Saïd, tới deo neo đậu,[1]
Trời sương sa lạnh thấu tim đen.
Người tây chịu lạnh đã quen,
Mà còn phát rét run en lọ là.
Lấy đồ nỉ, đem ra mà mặc, 305
Khăn bịch trùm, còn bắt lạnh run.
Nơi nóng dữ, chỗ lạnh hung,
Dầu hung dầu dữ, phải tùng phép sao!
Lúc khỉ sự, mà đào kinh đó,
Ngoài biển nầy, không có đá hàng. 310
Phải xây cản sóng cho an,
Mà đây không đá, phải toan thế nào.
Lấy vôi cát, trộn vào từ khối,
Kể tạ ra, cho tới hai trăm,
Hai ngàn khối, mỗi ngày làm, 315
Để phơi hai tháng rồi đam xuống tàu.
Chở tới chỗ, kéo nhào xuống biển,
Ấy là đồ, ném liện làm chưng.
Còn trên xây thể vách tường,
Sóng ào vô đánh, chống đương vững vàng. 320
Sóng sụt sụt, bủa ngang qua cữa.
Kêu ồ ồ ngã ngữa ra xa.
Thôi bảo chướng, hết phong ba,
Tánh coi êm ái, nết ra dịu dàng.
Phía tây hàng, hai ngàn rưỡi thước, 325
Còn phía đông, cũng được ngàn ngoài.
Kinh nầy đời trước có khai,
Hao mười hai vạn con người mới thôi.
Khi tàu đậu, thì trời đã tối,
Mà ghe đò, cũng vội chèo ra. 330
Trên bờ đèn khí sáng lòa,
Cảnh coi đẹp mắt, đờn hoà êm tai.


  1. Port-Said = Bo-xa-ít.