Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

128
NHO-GIÁO


mệnh cả. Cái đạo của Ngài mà thi-hành ra được cũng là mệnh Trời, mà không thi-hành ra được cũng là mệnh Trời: « Đạo chi tương hành giã dư, mệnh giã; đạo chi tương phế giã dư, mệnh giã 道 之 將 行 也 與,命 也:道 之 將 廢 也 與,命 也. » (Luận-ngữ: Hiến-vấn, XIV). Người quân-tử cứ an mà làm điều lành điều phải, dẫu thế nào cũng đã có cái mệnh của Trời, không nên oán Trời và giận người. Cho nên Ngài nói rằng: « Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân, cư dị dĩ sĩ mệnh 上 不 怨 天,下 不 尤 人,居 易 以 俟 命: Trên không oán Trời, dưới không trách người, cứ bình-dị mà đợi mệnh. » (Trung-dung).

Tri mệnh 知 命 tức là biết vui theo mệnh Trời mà sinh-hoạt, mà hành-vi cho phải đạo, chứ không lập ý riêng, mà cưỡng làm những điều tư-tâm của mình. Nhưng tri mệnh là việc rất khó, đến Khổng-tử mà còn phải đến năm-mươi tuổi mới biết mệnh Trời: « Ngũ thập nhi tri thiên-mệnh 五 十 而 知 天 命. » (Luận-ngữ: Vi-chính, II), huống chi người thường cho là dễ làm sao được. Người ta lúc còn trẻ tuổi, khí huyết đang hăng, tưởng việc gì cũng làm được. Về sau dần dần có kinh-nghiệm nhiều và lịch-duyệt lắm, mới biết là những công việc thành hay bại thường không phải tự mình định lấy được.