Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 1.pdf/7

Trang này đã được phê chuẩn.
— 4 —

Nhìn xem cá nước chim trời, Xa xuôi xứ sở ngậm nguồi vợ con.
Khi sao vật lạ món ngon, Chừ sao múi cục cơm hòn thế ni.
Khi sao viển tẩu cao phi, Chừ sao ly tiết một khi dập dồn.
Minh mông kìa vực nọ cồn, Nát gan cố quấc lạnh hồn tha hương.
Nặng nề công chuyện thãm thương, Trông ra Bãi-cạnh đêm trường vọng đăng.
Năm canh trằng trọc xăng văng, Sáng rồi linh láng biển giăng chưn trời.
Làm người cẩn thận ở đời, Chớ lờn phép nước thảnh thơi hoài hoài.
Dữ giằng thì phải mang tai, Trong vòng khỗ sở kêu nài với đâu.
Khuyên cùng ai nấy lo âu, Cứ trong bỗn phận nhớ câu nhơn nghì.
Dẩu mà gặp lúc hiểm nguy, Cũng đừng đỗi dạ phi vi lằng xằng.
Thiệt thà chắc chắn làm ăn, Hết cơn bĩ cực tới chừng thới lai.
Giữ gìn nghệ nghiệp sanh nhai, Xưa nay họa phước chẳng sai với mình.
Thẳng qua mấy độ thủy trình, Khỏi nơi Ba-động lại gành Băng-cung.
Ba-lai cữa sóng điệp trùng, Đại, Tiểu, cạng cùng ngoài có vọng đăng.
Đi đêm nhắm đó làm bằng, Khỏi nơi Lôi-rạp tới chừng Đồng-tranh.
Cần-giờ cữa biển có danh, Yết hầu cứ hiểm trời dành sẳng cho.
Gió xuôi buờm thả cánh cò, Ra ngoài Cữa-lấp tới đò Xích-ram.
Địa đầu giáp giái phủ Hàm, Nơi Cù-mi xứ có làm trạm canh.
Sông thời bốn cái có danh, Đã sâu mà rộng và xanh trong thường.
Phía Đông ba tĩnh các đường, Sông đường Vàm-cỏ sông đường Đồng-nai.
Phía tây ba tỉnh rộng dài, Hai ngả trong ngoài Tiền, Hậu, nhị giang.
Vàm-cỏ nguồn ở Mên mang, Chia làm đôi dải dọc ngang rỏ ràng.
Một dải Tây-ninh, Trảng-bàn, Kêu sông Bến-lức Thuận-an ấy là.
Một giải kêu sông Hưng-hòa, Vủng-gù vậy mà qua thấu Bắc-chiên.
Gội nhuần hai ngọn dòng quyên, Chảy xuống Lôi-rạp thông liên mọi đàng.
Đồng-nai nguồn Mọi cao sang, Chảy xuống hai hàng, hàng Đại, hàng Sâm.
Kề bên có miễu lâu năm, Tên miễu Thượng-đẳng u thâm linh kỳ.
Nghề rừng những kẻ ra đi, Xuống lên vái cúng đều thì sợ ghê.
Đường-sứ chảy xuống một bề, Hiệp với Nhà-bè sông gọi Phước-long.
Nhập với Tân-bình một sông, Tân-bình nguồn gốc trên giồng Mên hoan.
Chảy xuống các ngả nhẫy tràng, Cái-cùng, Dầu-một với đàng Lái-thiêu.
Thủ-đức, Đồng-cháy, nhẩy đều, Lên xuống dập dều đông đảo tàu ghe.
Hiệp với Đồng-nai, Nhà-bè, Chảy ra Cần-hải một bề phăng phăng.
Sông-sau, Sông-trước nguồn căng, Gốctrên Lèo-thượng sông rằngCửu-long.
Tiếng Mên kêu chử Mê-công (Mékong), Bên núi Tây-tạng chảy rông sang Mường.
Chảy xuống Nam-vang một đường, Chìa làm ba ngả nước thường ra vô.
Một ngả vào thấu Biển-hồ, Dân nhờ mùa hạng cá khô muôn vàng.
Một ngả kêu là Hậu-giang, Chảy về Châu-đốc nẻo đàng liêng liêng.
Luôn xuống Vàm-tấn, Ba-xuyên, Phân ra các dải lưởng biên bộn bàn.
Một ngả kêu là Tiền-giang, Cái-vừng chảy xuống liền sang Long-hồ.
Rồi liền luôn xuống Mỷ-tho, Chảy luôn ra biển quanh co rạch ngòi.
Biết bao xuống vịnh lên doi, Đường chuyên ngả chở hẳn hòi dể duôi.