có một người mất, người ta khâm liệm nhập quan, rồi thì làm các lễ. Đại-để có những lễ: thành-phục, phát-khốc, tống-táng, tế ngu, chung-thất, tốt-khốc, tiểu-tường, đại-tường, cho đến lễ đàm-tất mới hết.
Giải nghĩa. — Thành-phục = mặc đồ tang. — Phát-khốc = bắt đầu khóc. — Chung-thất = hết bảy tuần bảy ngày. — Trừ-phục = bỏ đồ tang.
Câu hỏi. — Câu « sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn », nghĩa là gì? — Khi trong nhà có người mất, thì người ta làm những lễ gì?
5. — Tang phục.
Ở nước ta, đồ tang phục dùng sắc trắng.
Khi cha mẹ mất, thì con trai, con gái, con dâu bận đồ sô gai. Lúc quan-tài còn để trong nhà, lúc đưa ma và lúc tế-lễ thì con trai đầu đội mũ chuối (mũ rơm), con gái đội mũ gai, lưng thắt dây chuối. Con trai chống gậy, cha thì gậy tre, mẹ thì gậy vông. Người trong họ thì đều chít[1] khăn trắng và mặc áo trắng cả.
Hạn để tang ở nước ta chia làm năm bậc, gọi là ngũ phục:
1∘ Tang ba năm gọi là đại-tang, như tang con để cho cha mẹ, nàng-dâu để cho cha mẹ chồng, vợ để cho chồng, cháu đích-tôn thừa-trọng để cho ông bà, chắt thừa-trọng để cho cụ ông cụ bà, con để cho đích-mẫu, kế-mẫu, cha mẹ nuôi, con vợ cả để cho từ-mẫu, con vợ lẽ để cho mẹ đẻ....
2∘ Tang một năm gọi là cơ-niên như tang cháu trai cháu gái (chưa đi lấy chồng) để cho ông bà nội, cháu để cho chú bác ruột, cho cô ruột (chưa đi lấy chồng), anh em chị em (chưa đi lấy chồng, hoặc đã lấy chồng mà lại trở về) để cho nhau, chồng để cho vợ (phải chống gậy; nếu cha mẹ hãy còn thì không chống gậy), cháu
dâu để cho ông bà chồng, rể để cho cha mẹ vợ, cha mẹ để cho con,- ▲ bít