để có sáu hạng là: lão-hạng, chức sắc, chức-dịch, thí-sinh và khóa-sinh, dân-đinh và ti-ấu.
Giải nghĩa. — Hương đảng trọng xỉ = làng xã trọng người hơn tuổi.
Câu hỏi. — Dân một làng thường chia ra làm mấy hạng? — Kể ra và nói các hạng khác nhau thế nào?
6. — Các ngày tết lớn.
Kể trong một năm, thật là có lắm ngày tết.
1° Tết Nguyên-đán. — Tết lớn nhất là tết Nguyên-đán, còn gọi[1] là tết cả. Tết này bắt đầu từ hôm ba-mươi tháng chạp, người ta làm lễ trừ-tịch để tống năm cũ. Chính tết thường ăn ba hôm, thì ngày nào cũng lễ gia-tiên (ông bà). Ngày mồng bốn thì người ta lễ tiễn gia-tiên. Ngày mồng bảy thì lễ khai-hạ để hạ nêu.
2° Tết Hàn-thực. — Tết này ở Bắc-kỳ, ăn vào ngày mồng ba tháng ba. Người ta thường làm bánh chay, bánh trôi-nước để cúng.
3° Tết Đoan-ngọ. — Tết này ăn vào ngày mồng năm tháng năm. Người ta có tục nhuộm móng chân, móng tay, và đeo chỉ-bùa cho trẻ. Sáng dậy, thường ăn các thứ hoa quả, gọi là giết sâu bọ. Đến giờ ngọ, lại đi hái các thứ lá để nấu nước uống, cho là hay lắm.
4° Tết Trung-nguyên. — Tết này ăn vào ngày rằm tháng bảy. Cứ theo sách Nhà-phật, thì ngày ấy, các vong-nhân ở dưới Âm-phủ được xá tội, nên các nhà làm cơm cúng và mua vàng mã đốt cho ông bà ông vải.
5° Tết Trung-thu. — Tết này ở Bắc-kỳ gọi thế là vì ăn vào hôm rằm tháng tám, là giữa mùa thu. Người ta làm cỗ cúng gia-tiên (ông bà), và tối đến bày bánh-trái ra sàn cúng mặt Trăng. Nhân dịp tết này, người lớn thì uống rượu, chơi trăng, hát trống-quân, trẻ-con thì chơi cỗ, hồ-khoan.
Các ngày lễ khác. — Trong một năm, ngoài những ngày tết
vừa kể trên, lại còn những ngày lễ khác. Như ngày rằm tháng- ▲ kêu