lấy, vì thế chủ trại sai chủ đỗng núi Vân-lãm là Thạch Thung-Cữu đem binh ra phục ở cửa núi để đón bắt. Lại sai tên tiểu-đầu-mục ra cửa rừng đàng trước mặt đón đường, có bắt được hai tên đầy-tớ, đến khi người cưỡi ngựa ấy chạy lại thời hắn hăng lắm không bắt được, giết mất tên tiểu-đầu-mục của trại ta, vì thế chủ trại cả giận, thân đem binh ra đuổi đánh, người cưỡi ngựa ấy phải Thạch tướng-quân đánh thua, chạy tạt lên núi, nên chủ trại tôi hiện đương vây ở trên núi, không ngờ người cưỡi ngựa ấy lại có pháp-thuật, tự-nhiên bình-địa làm nổi cơn phong-ba, người cưỡi ngựa ấy cứ ở trên đỉnh núi đất không ai lên được, nên chủ trại truyền quân-sĩ bổ vây kín, đợi đến sáng mai sẽ hay.
Mai tiểu-thư vội vàng hỏi rằng:
— Thế thời hai tên đầy tớ bắt được bây giờ ở đâu?
Tiểu Hiệu thưa:
— Bẩm hiện trói ở đàng gốc cây kia.
Mai tiểu-thư nói:
— Mày ra điệu nó vào đây để ta hỏi.
Tiểu-Hiệu vội vàng ra đi, trói điệu hai tên đầy tớ là Thông, Hán lại hầu, bắt quì ở trước mặt tiểu-thư. Mai tiểu-Thư hỏi:
— Hai tên kia tên họ là chi? người ở đâu mà đến núi Đại-hám này làm gì, người cưỡi ngựa đó mày gọi là gì? mày phải nói cho minh-bạch ta sẽ tha cho mày trở về.
Khi bấy giờ Hoàng Thông sợ thất-đảm hình như phải điệu ra pháp-trường để chịu chém, nói không ra hơi. Chỉ Hoàng Hán là còn có can-đảm, rỏ nước mắt mà thưa rằng:
— Chúng con là người Trình-hương họ Hoàng, tháng ba năm ngoái chúng tôi cùng với thày tôi là Hoàng Phùng-Ngọc vâng mệnh ông cụ tôi cho đi đến Tùng-hóa để thăm cô, không ngờ bà cô lại di-cư đến núi Đại-hám này, nên chúng tôi theo thày tôi đi đến. người cưỡi ngựa đó chính là thày chúng tôi, cúi xin chủ-trại tha cho tính-mệnh ba thầy tớ chúng tôi, chúng tôi đội ơn muôn vàn!
Mai tiểu-thư nghe nói thét lên mà rằng:
— À những tên này ở trước mặt tao còn dám nói dối à!