Dân thành Giê-ru-sa-lem đã bị làm phu-tù lại được trở về
91 Ấy vậy, cả dân Y-sơ-ra-ên được biên vào sổ theo các gia-phổ; kìa đã ghi-chép vào sách ký-lược của các vua Y-sơ-ra-ên. Dân Giu-đa, tại tội-lỗi họ, bị bắt đem qua nước Ba-by-lôn. 2 Sau khi từ Ba-by-lôn trở về, các người ở đầu-tiên trong địa-nghiệp và trong các thành-ấp của chúng, là người Y-sơ-ra-ên, thầy tế-lễ, người Lê-vi, và người Nê-thi-nim.
3 Ở tại thành Giê-ru-sa-lem, có người Giu-đa, người Bên-gia-min, người Ép-ra-im, và người Ma-na-se. 4 Về dòng Phê-rết, là con của Giu-đa, có U-thai, con trai của A-mi-hút, A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, và Im-ri con trai của Ba-ni. 5 Bởi người Si-lô-ni có A-sai-gia con trưởng-nam, và các con trai của người. 6 Bởi con-cháu Xê-rách, có Giê-u-ên và anh em người, là sáu trăm chín mươi người.
7 Về dòng Bên-gia-min, có Sa-lu, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai của A-sê-nu-a; 8 lại có Gíp-nê-gia, con trai của Giê-rô-ham, Ê-la con trai của U-xi; U-xi là con trai của Mi-cơ-ri và Mê-su-lam, con trai của Sê-pha-tia; Sê-pha-tia là con trai của Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai của Gíp-nê-gia, 9 và anh em chúng kể theo thế-hệ thì được chín trăm năm mươi sáu người. Những người ấy đều làm trưởng-tộc.
10 Trong những thầy tế-lễ có Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 và A-xa-ria, con trai của Hinh-kia; Hinh-kia con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam con trai của Xa-đốc; Xa-đốc con trai của Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt, con trai của A-hi-túp, là kẻ cai-quản đền của Đức Chúa Trời; 12 lại có A-đa-gia, con trai của Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai của Pha-sua; Pha-sua, con trai của Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai của Ma-ê-sai; Ma-ê-sai, con trai của A-đi-ên; A-đi-ên, con trai của Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai của Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai của Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai của Y-mê; 13 và anh em của chúng, số là một ngàn bảy trăm sáu mươi người, đều làm trưởng-tộc, có tài hầu-việc trong đền của Đức Chúa Trời.
14 Trong người Lê-vi có Sê-ma-gia, con trai của Ha-súp, cháu của A-ri-kham, chắt của Ha-sa-bia; thảy đều thuộc về dòng Mê-ra-ri; 15 lại có Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia, đều là con trai của Mi-ca, cháu của Xiếc-ri, chắt của A-sáp; 16 Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thum; Bê-rê-kia, con trai của A-sa, cháu của Ên-ca-na, là người ở trong làng dân Nê-tô-pha-tít.
17 Những kẻ canh cửa, là Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và anh em của chúng; Sa-lum làm đầu. 18 Cho đến bây giờ họ canh cửa đông của vua; còn xưa tổ-tiên họ đều giữ cửa trại người Lê-vi. 19 Sa-lum con trai Cô-rê, cháu của Ê-bi-a-sáp, chắt của Cô-ra, và anh em tông-tộc mình; ấy là dân Cô-rê lo coi-sóc sự phục-dịch, và canh-giữ các cửa đền-tạm; xưa tổ-phụ chúng cai-quản trại của Đức Giê-hô-va, và giữ cửa trại. 20 Xưa Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, làm quan-cai chúng, và Đức Giê-hô-va ở với người. 21 Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mia, là kẻ giữ cửa hội-mạc. 22 Những kẻ nầy đã được lựa-chọn hầu canh giữ các cửa, số được hai trăm mười hai người. Người ta chép gia-phổ họ theo các hương họ; vua Đa-vít và Sa-mu-ên, là đấng tiên-kiến, đã lập mấy người ấy trong chức của họ. 23 Ấy vậy, chúng và con-cháu của chúng, đều theo ban-thứ, mà coi giữ các cửa đền của Đức Giê-hô-va, tức là đền-tạm. 24 Các kẻ giữ cửa đặt ở bốn phía đền về đông,