Trang:Kinh Thanh Cuu Uoc Va Tan Uoc 1925.pdf/41

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
26: 16
27 : 3
SÁNG-THẾ KÝ

Phi-li-tin lấp đất lại hết. 16 A-bi-mê-léc nói cùng Y-sác rằng: Hãy ra khỏi nơi ta, vì ngươi thạnh-vượng hơn chúng ta bội phần. 17 Vậy, Y-sác bỏ chốn nầy đi đến đóng trại tại trũng Ghê-ra và ở đó.

18 Y-sác bèn đào lại mấy cái giếng người ta đã đào trong đời Áp-ra-ham, cha mình, mà bị dân Phi-li-tin lấp đất lại khi Áp-ra-ham qua đời, và đặt tên mấy giếng đó như tên của cha mình đã đặt. 19 Các đầy-tớ của Y-sác còn đào thêm giếng nơi trũng, gặp được một giếng nước mạch. 20 Nhưng bọn chăn-chiên Ghê-ra tranh-giành cùng bọn chăn-chiên của Y-sác, mà rằng: Nước đó của chúng ta; nên người đặt tên giếng nầy là Ê-sét[1]. Vì bọn chăn-chiên đó có tranh-giành cùng mình. 21 Kế ấy, các đầy-tớ đào một giếng khác, thì bị tranh-giành nhau nữa; người đặt tên giếng nầy là Sít-na[2]. 22 Đoạn, người bỏ chỗ đó đi đào một giếng khác; về giếng nầy, họ không tranh-giành nhau, nên người đặt tên là Rê-hô-bốt[3], mà rằng: Bây giờ Đức Giê-hô-va đã để cho chúng ta được ở rộng-rãi, và ta sẽ đặng thịnh-vượng trong xứ.

Đức Chúa Trời lại hứa cùng Y-sác

23 Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba. 24 Đêm đó Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha ngươi; chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng-dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi-tớ ta. 25 Y-sác lập một bàn-thờ, cầu-khẩn danh Đức Giê-hô-va và đóng trại tại đó. Đoạn, các đầy-tớ người đào một cái giếng tại nơi ấy.

Y-sác và A-bi-mê-léc kết ước nhau

26 Vua A-bi-mê-léc ở Ghê-ra đi đến viếng Y-sác, có A-hu-sát, bạn mình, và Phi-côn, quan tổng-binh mình, đi theo. 27 Y-sác bèn hỏi rằng: Các người ghét tôi, đã đuổi tôi ra khỏi nơi mình, sao còn đi đến tôi mà chi? 28 Chúng đáp rằng: Chúng tôi đã thấy rõ-ràng Đức Giê-hô-va phù-hộ người, nên nói với nhau rằng: Phải có một lời thề giữa chúng tôi và người, để chúng ta kết giao-ước với người. 29 Hãy thề rằng: Người chẳng bao giờ làm hại chúng tôi, như chúng tôi đã không động đến người, chỉ hậu-đãi người và cho đi bình-yên. Bây giờ người được Đức Giê-hô-va ban phước cho. 30 Y-sác bày một bữa tiệc, các người đồng ăn uống. 31 Qua ngày sau, chúng dậy sớm, lập lời thề với nhau. Rồi, Y-sác đưa các người đó đi về bình-yên.

32 Cùng trong ngày đó, các đầy-tớ của Y-sác đến đem tin cho người hay về giếng họ đã đào, rằng: Chúng tôi đã thấy có nước. 33 Người bèn đặt tên cái giếng đó là Si-ba[4]. Vì cớ đó, nên tên thành ấy là Bê-e-Sê-ba cho đến ngày nay.

Ê-sau cưới vợ

34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, cưới Giu-đít, con gái của Bê-ê-ri, người Hê-tít; và Bách-mát, con gái của Ê-lôn, cũng người Hê-tít. 35 Hai dâu đó là một sự cay-đắng lòng cho Y-sác và Rê-be-ca.

Gia-cốp cướp phước lành của Ê-sau

271 Bởi Y-sác đã già, mắt làng chẳng thấy được nữa, bèn gọi Ê-sau, con trưởng-nam, mà rằng: Hỡi con! Ê-sau thưa rằng: Có con đây. 2 Người bèn nói rằng: Nầy, cha đã già rồi, chẳng biết ngày nào phải chết; 3 vậy bây giờ, cha xin con hãy lấy khí-giới, ống tên và cung con, ra đồng săn thịt rừng cho cha,


  1. Ê-sét, nghĩa là tranh-giành.
  2. Sít-na, nghĩa là giành nhau.
  3. Rê-hô-bốt, nghĩa là rộng-rãi.
  4. Si-ba, nghĩa là lời thề.
— 29 —