Trang:Hung Dao Vuong.pdf/119

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 118 —

Các con ngài là Hưng-võ vương Quốc-Nghiễn, Hưng-hiến vương Quốc-Úy, Hưng-nhượng vương Quốc-Tảng, về sau cũng được phong làm đại-vương. Con thứ tư là Hưng-trí vương Nghê từ khi đánh Nguyên giở về đến làng Chung-mỹ huyện Thủy-đường tỉnh Hải-dương,[1] chiêu mộ lưu dân, cho tụ tập làm ăn. Về sau mất đi, dân ở đấy lập miếu phụng tự, lịch đại có sắc phong làm phúc-thần.

Các bộ-tướng của ngài: Phạm-ngũ-Lão về sau lại đánh Ai-lao, Chiêm-thành có công được phong làm Điện-tiền thượng-tướng-quân. Sau khi mất, làng Phù-ủng lập miếu thờ làm phúc-thần.

Yết-Kiêu về sau cũng được phong tặng làm Tĩnh-mục-hiển-minh-chiêu-ứng đại-vương, làm thành-hoàng làng Hạ-bì.[2]

Nguyễn-chế-Nghĩa về sau lấy con gái vua Anh-tôn là nàng Nguyệt-hoa công-chúa, lúc mất được phong làm An-nghĩa đại-vương. Làng Kiêu-kỵ[3] nhân thấy linh-ứng, lập miếu thờ làm thành-hoàng.

Còn các tướng cũng được phong tặng, tòng tự ở trong đền Vạn-kiếp.

Kể từ năm Đinh-tị Nguyên-phong tứ bảy (1257) ngài mới bắt đầu phụng mệnh đánh giặc, đến năm nay là năm giáp-dần (1914), trục tính được 657 năm, mà miếu mạo uy danh ngài lại nguy nga hơn trước. Ngài thực là một bậc đại-anh-hùng nước Nam.

Đó là:

Đông-a vận mở giời sinh thánh,
Nam-hải danh thơm sử tạc bia.

Hồi sau sẽ lục những bài văn tán.




  1. Thủy-đường bây giờ thuộc tỉnh Kiến-an.
  2. Thuộc huyện Gia-lộc, tỉnh Hải-dương.
  3. Thuộc Bắc-ninh.