Trang:Dao duc va luan ly Dong Tay.pdf/7

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 5 —

năm 1906 thì cụ trở về Nước Nhà. Trước khi bỏ vợ, bỏ con, bỏ nhà, bỏ cửa, ra ngoại quốc cụ không mưu đồ phú quí, sau khi cụ ở ngoại quốc về cụ củng không tríu vợ, tríu con, tríu nhà, tríu cửa để vui cuộc đoàn viên, thật cụ đau lòng vì đâu mà đi, mà củng đau lòng vì đâu mà về vậy. Trong lúc ở Nhựt cụ đọc được nhiều sách của các nhà triết-học chánh-trị trứ danh ở hoàn cầu, như sách « Những sự bí mật ở đời xưa » của ông Luther (người Đức) sách « thế kỷ vua Louis XIV » của ông Voltaire (người Pháp), sách triết lý của ông Nietzsche (người Đức) sách Ham-lét của ông Shakespeare (người Anh v. v. cho nên khi về nước sanh được nhiều ý kiến lạ. Về đến Hànội cụ có đưa cho các quan bảo-hộ một bức thơ nói về cái họa người Tàu tràng sang Việt-Nam. Đại khái cụ nói: Nếu người Pháp không sớm cải cách chánh-trị thì người Pháp sẻ không có bạn ra giúp đánh người Tàu trong khi đả tràng sang đất Việt Cụ phản đối phép chánh trị chuyên chế của quan Pháp, quan Nam trong buổi ấy và khuyên nhửng người Pháp có lòng nhân-đạo người Nam có lòng ái-quốc nên ra chung lưng đâu cật để giử quyền lợi chung[1] Xướng ra việc Pháp Nam liên-lạc thật cụ là người đứng đầu vậy.

Cụ nghĩ rằng ở đâu củng đều lấy việc cường quốc phú dân làm đầu cho nên về đến Quang-Nam thì cụ liền xướng lên việc làm trường học, dựng nhà buôn, lặp hội canh-nông, khai trường diển-thuyết và đi khắp các tỉnh Trung-Kỳ truyền bá nhửng tư-tưởng Đông Tây, vẻ-vời nhửng chân tướng bọn tham-quan ô-lại khiến những người dân lành đều đem lòng cảm phục cụ, mà bọn tham quan thì sanh lòng ghét ghen.

Tháng sáu năm 1907 cụ ra HàNội, diển thuyết tại hội Đông kinh-nghĩa-thục và khắp các tĩnh BắcKỳ. Tháng giêng năm 1908 dân các tỉnh Trung Kỳ đều dậy chống với các quan Annam, thật cụ củng không ngờ sự kết quả sớm đến thế. Nghe tin Trung-Kỳ có loạn ông Bonhoure[2] tư giấy bắt cụ điệu về Huế và giam tại toà khâm. Cụ là người anh-hùng, coi việc chết sống như mảy lông. Cụ nhịn đói hơn bảy ngày


  1. Bức thơ ấy có dịch ra quốc-văn và đăng trong Đang-cổ tùng bào năm 1907
  2. Bouhoure thống đốc Nam-Kỳ quyền tòa quyền Đông dương tư 2 Fevrier đến 24 Septembre 1908