Tôi nay: Hổ chút phận hèn; mừng sinh cửa cả.
Tiết xuân vừa thủa trăng tròn;
Vườn cảnh đương thì hoa nở.
Sách có chữ: « Khuê-môn bất-xuất »;[1] đường nghĩa-phương dạy bảo dám sai lời.
Lễ ghi câu: « Túc-dạ vô-vi »;[2] việc nữ-tắc sớm khuya đành để dạ.
Sự duyên này dám tỏ nước non;
Nông nỗi nọ biết đâu nhạn cá.
Rộn-rã mấy văn-nhơn tài-tử; tin ong sứ điệp, chửa từng khi trả mận gieo đào.
Mơ-màng cân quốc-sắc thiên-hương; gối phụng chăn loan, còn đợi khách đưa thư ném quả.
Những ước: Vui miền Khổng, Mạnh; đẹp phận Châu, Trần.
Duyên kết kẻ gối Ôn, màn Đỗng[3];
Mối xe nên chỉ Tấn, tơ Tần.
Đấng anh-hùng gặp khách thuyền-quyên, mặc sức kẻ xôi kinh nấu sử.
Người thục-nữ sánh chàng quân-tử; cam lòng khi sửa túi nâng khăn.
Há có phải tham bùi xẻ ngọt;
Phó mặc ai nẩy mực cầm cân.
Vả bấy nay quả-nhỡn tiền-tài; ngươi Thạch[4] nọ đã từng đấu phú.
Nào mấy kẻ trần trung vật-sắc: chàng Trần[5] kia có lẽ trường bần.
Tưởng thế-sự dám so hơn thiệt;
Ắt thiên-duyên còn đợi xoay vần.
Đường liễu duyên đưa; cung trăng khách quyến.
Ấy vì ai tin nhạn dẽ đưa?
Bỗng thấy kẻ nhà nông tìm đến.
Người giắt mối, tin còn rìu-rặt; lân-la vừa lữa-lữa, quen-quen.
Kẻ đưa lời, tình tỏ vân-vi; dan-díu khéo vui-vui thẹn-thẹn.
Trang:Co xuy nguyen am.pdf/83
— 76 —
