Trang:Ca tru the cach.pdf/8

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 8 —

duyên lạnh lẻo buổi ong già huê rụng; tơ Nguyệt lão xe nào có vụng, thử treo gương cho tài tử giai nhân; sắc tài ai kẻ cầm cân.


Tiếc những đứng văn nhơn tài tử, trót đa mang vì một chữ tình; nghĩ nguồn cơn thẹn với ông trời xanh, tưởng nông nỗi giận cùng vầng trăng bạc. Tương thức nhứt thinh song lụy lạc, khả lân bán điểm nét châu huyền; trách vì phận giận vì duyên, duyên phận những theo tình nên nông nỗi; dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối, thắt ruột tấm bối rối càng đau; tương tư nầy ai để cho nhau.


CA TRÙ CỔ THƠ

Bút hoa thảo vân tiên một bức, gởi đưa người tri thức đặng hay: gẫm từ gặp khách đàng mây, ước chừng cung quế xe dây xích thằng. Khúc Giang-lăng cong lòng cạnh cạnh, rắp tìm mai Thứu lảnh canh ba; nguyệt năm canh diển khách hằng nga, thi một lúc nhớ người hoài viễn: vườn lan uyển nhụy đào phong kiến, thơ gởi chim còn nể lòng chim; gành ngân giang sứ điệp cách trông, thơ nhắn cá còn e dạ cá, có thơ rằng:

Nỗi niềm can cớ bỡi vì ai.
Chích bóng gương loan lược biếng cài,
Đằng đằng một năm dài dặc dặc,
Thấu tình chăng hỡi khách chương đài.


CA TRÙ PHÚ CÁCH

Nhớ thuở Vĩnh-bình có chàng Lưu, Nguyễn; hai gã đồng tâm đồng điệu, một đoàn phi Thích phi Nho; trên đời thưa thớt mấy go, an lạc xóm lâm tuyền một góc: ngoài cõi thừa ưa hóng mát, thanh quang gành phong nguyệt đôi phường. Người Hi Hoàng bỏ khước nỗi ngày nhàn, sự Nghiêu Thuấn rửa tai dòng nước chảy. Án ngọc tụng pho thanh giãn, vượn tới nghe kinh; lò vàng luyện bánh linh đơn, hạc bay lánh khói. Thân thể đã xa mùi tục lụy, tinh thần như tới chốn huyền hư; gặp ngày đoan ngũ tiết lành, giăng tay cùng hái thuốc; vào chốn thiên thai non thẳm, lỡ gót bổng quên đàng; nếm quả đào đòi bữa dạ mê man, ngậm trái núi lại nhẹ mình thoát thoát. Ren rỏi sương vàng mây bạc, canh gà