Trang:Ca tru the cach.pdf/10

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 10 —

triều nước vơi. Lâm dâm sủ với trên không, khứng rằng tương ngộ tương phùng cõi xa. Ngẫn ngơ đứng gốc mai già, hỏi thăm ông Nguyệt có nhà hay không.


Đêm qua chớp bễ mưa nguồn, hỏi người tri thức có buồn cùng chăng. Ngọn đèn tàn thấp thoảng bóng trăng, ai đem người ngọc xung xăng chốn nầy. Lộ đồ diêu viễn xa xuôi, thuyền tình chở một mình tôi nặng gì. Tuyết sương rụng lá từ bi, hằng nga lảng đảng chơn đi ngập ngừng.


Nước hồ tây lẽo lẽo như gương, tóc mây biếng chải mặt dường bể bai; thẫn thơ đứng dựa gốc mai, bụng tôi tôi biết, bụng ai tôi nhàm. Chánh phong hai chục năm thiên; Châu nam mười một, vốn truyền nẽo xưa; Hậu phi có đức quan thư, gia nhơn mầng thấy hứng thừa ngợi khen.


PHAN VINH CÁCH.

Vãn vân sực nhớ sự tình, hiu đòi mây nước rập rình nên quen; cơn thảo muội anh hùng mới tỏ, đất Bồ-châu dấu có vỉ nhơn.


Gió nam phong thổi động lá ngô, nghĩ non nước càng thêm buồn bả; sóng gập ghình mượn cơn gió cả, nhạn lơ thơ cách áng mây tuôn. Tới Võ-lăng đón hỏi chàng ngư, cảnh đào nguyên hãy còn bao nã, một con thuyền tiẻu đưa đôi ba ngã, biết rằng đâu biển ái nguồn ân, sông ngô sóng dậy tâng bầng.


Kìa ai chốn Long-trung cao ngọa, chẳng là người quê ở Lang gia: lều bạch mao đàng hãy còn xa, bàn bạc chia ba rồng thiên hạ. Lưu-Huyền-đức ba phen uổng giá, hủy kỳ thân hứa dữ trì khu; lên tây sơn lấy bức họa đồ, cẩm nang mới bày sang Ngô thị. Dốc kế tuyệt phò suy chi chí, bát trận đồ danh để tạc bia, ấy ông Gia-các khôn bì.


Xem Quốc-sắc-thiên hương thiệt lục, đứng sĩ nho có ngươi Võ-kì-sanh: đao kia trận, bút kia thành, hào huê khí hai vừng