Đông và Nam giáp bể Trung-quốc (tức là bể Nam-hải); tây giáp Ai lao và Cao mên; bắc giáp nước Tầu, liền với tỉnh Quảng Đông Quảng-Tây và Vân-Nam,
Diện tích cả nước rộng chừng độ 312 000 ki-lô-mét vuông, chia ra như sau này:
Bắc-kỳ: 105.000 ki-lô mét vuông.
Trung-kỳ: 150 000 ki-lô-mét vuông.
Nam-kỳ: 57.000 ki-lô-mét vuông.
Địa-thế. — Nước ta chia làm ba xứ: Bắc-kỳ, Trung-kỳ và Nam-kỳ, Đất Bắc-kỳ thì có sông Hồng-Hà (tức là sông Nhị-Hà) và sông Thái-bình. Mạn trên gọi là thượng du lắm rừng nhiều núi, ít người ở, Mạn dưới gọi là trung-châu, đất đồng bằng, người ở chen chúc đông đúc lắm.
Đất Trung-kỳ thì chỉ có một giải ở men bờ bể, còn ở trong có núi Tràng-sơn chạy dài từ Bắc-kỳ vào gần đến Nam-kỳ, cho nên người chỉ ở được mạn gần bể mà thôi. Đất Nam-kỳ thì ở vào khúc dưới sông Mê-kông tức là sông Cửu-Long, lại có sông Đồng Nai chảy ở phía trên, cho nên đất tốt ruộng nhiều, dân gian trù phú, và dễ làm ăn hơn cả.
Chủng loại. — Nước Việt Nam có nhiều dân-tộc ở, như là ở về miền thượng du xứ Bắc kỳ thì có dân Thổ, Mường, Mán, Mèo: ở về miền rừng núi xứ Trung kỳ thì có dân Mọi và Chàm (tức là Hời); ở về miền Nam kỳ thì có dân Mọi Chàm Cao-mên Chà và và Khách vân vân... Những dân ấy ở trong ba xứ tất cả đến non một triệu người. Còn thì dân tộc Việt Nam ở hết cả.
Số người Việt Nam ở trong ba xứ có thể chia ra như sau này: