Thứ Cúc pha tặng thi - 次菊坡贈詩
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

太平天子正崇文
喜見黃金礫瓦分
美玉不勞求善價
猗蘭終自吐清芬
羡君已作儀庭鳳
愧我應同出岫雲
兩眼昏花頭竟白
涓埃何以答君恩

Thái bình thiên tử chính sùng văn ;
Hỷ kiến hoàng kim lịch ngõa phân.
Mỹ ngọc bất lao cầu thiện giá ;
Ỷ lan chung tự thổ thanh phân.
Tiển quân dĩ tác nghi đình phượng[1],
Quý ngã ưng đồng xuất tụ vân[2].
Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch,
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.

Đời thái bình thiên tử chính chuộng văn ;
Mừng thấy vàng được phân biệt với sành gạch.
Ngọc tốt không cần nhọc phải đòi giá đắt ;
Lan quý rốt cuộc cũng sẽ ngát hương thơm.
Mừng thấy ngươi đã làm phượng ở điện đình ;
Thẹn cho ta còn phải giống mây bay khỏi động.
Hai mắt đã lòa đầu lại bạc,
Lấy gì mà đền đáp ơn vua chút mảy may.

   




Chú thích

  1. Nghi đình phượng: tức là chim phượng đến chầu ở sân vua, theo chữ « phượng hoàng lai nghi » trong Kinh Thư
  2. Xuất tụ vân: Đào Tiềm có câu thơ: « Vân vô tâm dĩ xuất tụ », nghĩa là mây vô tâm mà ra khỏi hang động. Mây ra khỏi hang, chỉ người đi xa quê hương