Đ

  1. Đa đa ích thiện.
    Nghĩa là nhiều chừng nào, càng thêm hay chừng nấy.
  2. Đa hư bất như thiểu thiệt.
    Nhiều óp, chẳng bằng ít chắc ; có câu rằng : quí tinh bất quí đa, thì là dùng ròng chẳng quí nhiều.
  3. Đa ngôn đa quá.
    Nhiều lời nhiều lỗi, cho nên người khôn, hay cẩn thận lời nói, bằng có mở miệng, thì ngôn tất hữu trúng.
  4. Đa tài lụy thân.
    Tài nhiều thì luống nhọc mình : Chữ tài ấy có hai nghĩa, một nghĩa là của cải, một nghĩa là tài năng ; người ta hay lấy nghĩa trước, một sự lo đặng lo mất, thì cực biết mấy, huống chi có người phải chết vì tiền của.
  5. Đá kêu rêu mọc.
    Hiểu nghĩa là chậm trễ, lâu lắc thái quá.
  6. Đắc chi dị, thất chi dị
    Đặng đó dễ mất đó dễ, cả công danh phú quới đều như vậy ; hễ đặng vô cớ thì mất cũng vô cớ.
  7. Đắc Lũng vọng Thục.
    Đặng đất Lũng-tây trông lấy Ba-thục, chỉ nghĩa là tham đắc vô yểm.
  8. Đắc sũng ưu nhục.
    Đặng yêu lo nhuốc, hễ đặng kẻ yêu vì, thì phải lo bề xấu hổ, không nên tự đắc.
  9. Đái đầu ông xá.
    Quen thói dể ngươi. Tích nói ông Xá là một vì quan hiền lành, thường đi việc quan, qua lại dưới cội cây, có đứa thiểu niên trèo lên ngọn cây, mà đái xuống đầu ông ấy, ông ấy không nói gì ; đứa thiểu niên đặng mợi cứ đái hoài, chẳng ngờ đụng nhằm ông quan khác dữ, liền bắt nó mà chém đi.
  10. Đại giả tiểu chi tích, tiểu giả đại chi phân.
    Hiệp cái nhỏ thì làm ra cái lớn ; phân cái lớn thì là cái nhỏ, cho nên chớ thấy nhỏ mà dạn làm hay là không nỡ làm. Có câu rằng : vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi.
  11. Đại khí vãn thành.
    Người có đại tài, mà làm nên muộn, ấy cũng là tiếng than.
  12. Đại mộc lưu giang, bất đắc hồi cố.
    Cây lớn trôi sông, chẳng đặng về chỗ cũ, ví với người thất lạc trôi nổi, chẳng trông trở về quê quán.
  13. Đại ngôn bất tàm.
    nói phách mà không biết hổ.
  14. Đại ngôn vô thật.
    Lớn lời nói mà không chắc. Hễ người hay khoe khoang, nói lớn lối, thì chẳng hề có sự thật.
  15. Đại nhơn năng dung tiểu nhơn.
    Người lớn hay dung kẻ nhỏ. Hễ làm lớn thì phải có độ lượng, chẳng khá hẹp hòi với kể nhỏ. Dung nghĩ là đựng, chẳng bao dung, thì là chẳng đựng, ấy là bất năng dung vật.
  16. Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
    Giàu lớn bỡi trời, giàu nhỏ bỡi siêng.
  17. Đại vi đài vi các, tiểu vi đống vi lương.
    Lớn làm đài làm các, nhỏ làm cột làm rường, nghĩa là tùy theo sức theo thế, chẳng đặng bậc đài các thì cũng làm bậc đống lương.
  18. Đâm bị thóc, thọc bị gạo.
    Hiểu nghĩa là người đòn xóc, hay đâm đầu nầy thọc đầu kia cho sanh sự bất hòa.
  19. Đãm dục đại nhi tâm dục tiểu.
    Mật muốn lớn mà lòng muốn nhỏ, nghĩa là phải có gan mà cũng phải cẩn thận.
  20. Đâm lao phải theo lao.
    Nghĩa là lỡ chừng phải theo.
  21. Đạn ăn lên tên ăn xuống.
    Ay là lời chuẩn đích trong sự bắn súng, bắn ná.
  22. Đặng buồng nầy khuây buồng nọ.
    Buồng là buồng cau, buồng chuối, có buồng bây giờ quên buồng ăn rồi, chỉ nghĩa là vong ân.
  23. Đặng cá quên nơm.
    Chỉ mầng con cá, không nhớ tới đồ dùng mà bắt cho đặng cá, nghĩa là phụ ơn.
  24. Đăng cao tất tự ti, hành viễn tất tự nhỉ.
    Lên cao ắt bỡi thấp, đi xa bỡi gần. Trước thấp sau mới cao, trước gần sau mới xa. Muốn làm thầy trước phải làm tớ.
  25. Đặng chẳng mầng, mất chẳng lo.
    Nghĩa là vô tâm.
  26. Đặng chì đặng chài.
    Nghĩa là đắc thế ; chì để mà dằn chưn chài, đặng một mà sanh hai.
  27. Đặng chim bẻ ná.
    Đặng cá mà quên nơm, thì hãy còn cái nơm, đặng chim bẻ ná, thì lại làm hư cái ná, đã vô ơn mà lại hủy hoại.
  28. Đàng dài biết sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay.
    Có nguy biến mới biết lòng người, đi đàng xa mới biết sức ngựa.
  29. Đàng lang bộ thyền.
    Con châu chấu bắt con ve ve. Con châu chấu đương chụp con ve ve, chẳng dè đàng sau lại có con huình tước chụp mà bắt cả đôi, chỉ nghĩa là ham ăn mà không nghĩ hậu.
  30. Đắng cũng là ruột, ngọt cũng người dưng.
    Đắng mà thiệt, ngọt mà giả ; lại đắng là mực thiệt, ngọt là đãi bôi, nghĩa là phải lấy cật ruột làm hơn.
  31. Đặng phe của mất phe con.
    Nghĩa là ít người đặng vuông tròn, cho nên người ta hay chúc tam đa ngũ phước.
  32. Đàng tí đương xa.
    Nghĩa là cánh chấu chống xe : thế suy nhược chẳng chống đặng sức lớn.
  33. Đánh cho chết nết không chừa.
    Nghĩa là không chịu giáo hóa, hay là khó dạy bảo.
  34. Đánh chó không kiêng chủ nhà.
    Nghĩa là không vị nhau, hay là không nghĩ tình diện nhau ; có câu rằng : sợ hùm phải kiêng cứt hùm.
  35. Đánh một gái giái cả chợ.
    Xử tội một gái để mà răn đờn bà con gái khác. Tục đất nầy việc đi chợ mua ăn thì là việc đờn bà, nói cả chợ thì hiểu cả đờn bà con gái. Đời quan Tả-quân, những tội lang vân ngoạt tình, thường cho voi giỡn tại chợ.
  36. Đánh rắn cho chết nọc.
    Nghĩa là làm cho dứt hậu hoạn.
  37. Đánh trống động chuông, bứt mây động rừng.
    Nghĩa là nhơn một việc mà động lây tới việc khác. Thương danh hại nghĩa gọi rằng động, làm mất lòng cũng là động.
  38. Đao kiếm tuy lợi bất sát vô tội chi nhơn.
    Đao gươm dầu sắc không giết người vô tội.
  39. Đào lý nhứt môn.
    Một cữa cây đào cây lý, ấy là con một nhà, học một trường ; cữa thầy hay trồng đào lý.
  40. Đào sâu khó lấp.
    Chỉ nghĩa là làm quá tay thì khó sửa lại, thường hiểu về sự làm tội ác ; hễ là tội nhiều thì khó đền bồi.
  41. Đạo ngô ác giả thị ngô sư, đạo ngô hảo giả thị ngô tặc.
    Kẻ nói sự xấu là thầy ta, kẻ nói sự tốt ta thì là hại ta.
  42. Đạo thính đồ thuyết.
    Nghĩa là nghe dọc đàng nói dọc đàng, thì là chuyện không đích xác.
  43. Đáo xứ tùy dươn.
    Nghĩa là làm khách đất người phải tùy theo dươn phận.
  44. Đạp gai lấy gai mà lể.
    Ấy là tiếng kẻ thua cờ bạc hay nói : hễ thua cờ bạc thì phải theo cờ bạc mà gỡ, cũng như nói độc khử độc, lại lâm lụy việc gì phải theo việc ấy mà gỡ.
  45. Đất có quê lề có thói.
    Nghĩa là đâu đâu có thói phép riêng.
  46. Đất cũ đãi người mới.
    Nghĩa là người mới hay gặp duyên mới ; thường thấy người mới tới làm ăn thạnh lợi, nhứt là những người làm thnốc, mới tới đất lạ, thì làm thuốc đắt hơn người cố cựu ở đó.
  47. Đau chơn há miệng.
    Chỉ nghĩa túng lắm, thì phải kêu phải nói ; phép tra khảo hay dụng kềm, kềm kẹp đau chơn thì phải xưng ngay, có khi không có cũng phải chịu.
  48. Đắt là quế ế là củi.
    Cũng là một miếng vỏ cây mà nhiều người mua, nhiều người dùng thì gọi là quế, bằng không thì kêu là củi, nghĩa là ít khi trân trọng nhiều thì khinh bạc.
  49. Đau chóng đã chày.
    Ấy là lời khuyên người bịnh, chẳng khá ngã lòng về sự đau lâu ; ấy cũng là lời chuẩn đích.
  50. Đau lâu tốn thuốc.
    Ấy là tiếng người dau lâu sờn lòng, rủa mình thà chết đi một cái ; kẻ đánh cờ bạc không chịu thua thì mòn, cũng hay nói thà thua đi một cái.
  51. Đau tiếc thân lành tiếc của.
    Đau sợ chết cầu thầy cứu, bao nhiêu cũng chịu cho thầy ; đến khi mạnh, tiền thuốc của thầy lại không chịu trả.
  52. Đau lòng súng súng nổ, đau lòng gỗ gỗ kêu.
    Chỉ nghĩa là bức tức, không an, thì phải phát, phải ra miệng, không lẽ nín.
  53. Đầu đi khúc chuyển.
    Ấy là sự rắn bò, dầu muốn đi thì mình phải uốn khúc, nghĩa là có gốc mới có ngọn, có người xướng trước, mới có kẻ làm theo.
  54. Đầu thử kị khí.
    Nghĩa là quăng con chuột mà kị đồ dùng. Qnăng chú giáp phạm nhằm chú ất, sợ hãi lấy cho nên không nỡ ; ái ốc cập ô, cũng có nghĩa là sợ hại lây.
  55. Đầu vào trôn ra.
    Sự thể nghèo nàn, đứng ngồi không yên.
  56. Đầu voi đuôi chuột.
    Lớn thích bằng cái đầu voi, nhỏ choắt bằng cái đuôi chuột : một ngày một thỏn mọn, hay là trước có mà sau không có.
  57. Đầy tớ xét công, vợ chồng xét nhơn nghĩa.
    Đứa ở, phải xét công, chớ coi của hơn người; về sự vợ chồng chẳng khá cầu chấp nhau trong sự lầm lỗi.
  58. Đẻ sau khôn trước.
    Nghĩa là nhỏ tuổi mà khôn hơn người lớn.
  59. Đệ tử phục kỳ lao.
    Nghĩa là kẻ làm con em, thì chớ nệ khó nhọc.
  60. Đem voi về giày nhà mả.
    Nghĩa là rước sự thiệt hại về nhà, thường hiểu về người.
  61. Đen đầu gọi là người.
    Chỉ nghĩa là không phân biệt, mười người như một.
  62. Đèn nhà ai nấy sáng.
    Nghĩa là việc ai nấy tỏ.
  63. Đi khôn đứt, bứt khôn rời.
    Nghĩa là bịn rịn.
  64. Đi xem đất, về cất mặt xem trời.
    Ấy là sự răn con trẻ phải giữ nết na đằm thắm, không nên vúc vắc ngửa nghiêng.
  65. Đỉa đeo chơn hạt.
    Chỉ nghĩa là sang hèn, xấu tốt không xứng nhau, chẳng khác chi người hèn mà muốn vợ sang.
  66. Đồ trường tri mã lực, quấc loạn thức thần trung.
    Nghĩa là đàng dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay, đã có giải trước.
  67. Độc dược khổ khẩu lợi ư bịnh.
    Nghĩa là thuốc độc đắng miệng mà lợi cho bịnh ; có câu nôm rằng : thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng.
  68. Độc khử Độc.
    Nghĩa là giống độc trừ giống độc, cũng như độc rắn, chẳng dùng thuốc độc thì chẳng lẽ trừ.
  69. Độc mộc bất thành lâm.
    Có câu nôm rằng : một cây làm chẳng nên non, ba cây giụm lại nên hòn núi cao. Nghĩa là có nhiều vai cánh, mới đặng sum vầy.
  70. Độc thơ cầu lý.
    Độc sách tìm nghĩa lý, không phải câu theo nét viết cùng tiếng nói.
  71. Đọc mộc nan chi đại hạ.
    Nghĩa là một cây khôn chống chái cả, hay là nhà lớn. Nghĩa là sức riêng không chịu đặng việc cả sức.
  72. Đói ăn rau đau uống thuốc.
    Dưỡng sanh có phép.
  73. Đói cho sạch, rách cho thơm.
    Nghĩa là phải an phận nghèo, cùng phải giữ danh giữ tiếng.
  74. Đói đầu gối hay bò.
    Túng thì phải biến. Chịu khó mới có mà ăn, ngi không ai dễ đem phần tới cho.
  75. Đói sanh kẻ dử.
    Đói lắm thì quên lễ nghĩa.
  76. Đói trong ruột không ai biết, rách ngoài cật nhiều kẻ hay.
    Có câu rằng : áo cũ để bận trong nhà, áo mới bận ra ngoài đường. Thường sự người ta hay lấy việc bề ngoài mà đoán việc bề trong, hay là lấy chỗ thấy mà nghị luận chỗ không thấy.
  77. Đời khảy tai trâu.
    Chỉ nghĩa là không biết nghe lời phải ; không phải đồng loại, cho nên không lẽ dạy biểu.
  78. Đòn xóc nhọn hai đầu
    Chỉ nghĩa là nịnh tà, hay làm cho người mất đều hòa thuận.
  79. Đong đi đổ lại sao đầy.
    Có ý nói riêng về sự đong lường. Một sự đong đi lường lại thì có thâm hao, không phải hao vì sự đong lười thiếu ; cũng như nói cầm dầu có hòng rớt tay, một sự ướt tay, thì cũng làm cho dầu thiếu.
  80. Đóng cữa dạy nhau.
    Về việc quấy phải trong nhà, lấy theo lẽ khôn ngoan thì phải dạy riêng, chớ cho người ngoài biết.
  81. Đông tay hơn hay làm.
    Nghĩa là đông tay thì phải được việc hơn, cũng như rít nhiều chưn, thì hay giúp nhau.
  82. Đông có mây tây có sao.
    Chỉ nghĩa là sum hiệp.
  83. Đồng ác tương tế.
    Nghĩa là xấu với xấu hiệp ý nhau, cũng giúp nhau mà làm nên chuyện xấu.
  84. Đồng bịnh tương liên.
    Đồng một bịnh một tật như nhau, thì hay thương nhau. Hễ là biết sự đau đớn cực khổ nhau, thì biết thương nhau hơn ; các kẻ mang tật rượu cùng cờ bạc ưa nhau, cũng là đồng bịnh tương liên.
  85. Đồng thinh tương ướng, đồng khí tương cầu.
    Đồng một tiếng tăm thì đối đải với nhau, đồng một chí khí thì tìm nhau : những kẻ có chí khí giống nhau thì đồng lòng cùng ưa hạp nhau. Lại kẻ tài trí có chí khí giống nhau, cho nên có câu rằng : Quân tử dĩ chí khí tương kì.
  86. Đồng thực đồng thọ.
    Nghĩa là đồng ăn đồng chịu, hay là có ăn chung, thì phải chịu chung : ăn trộm phân tang, đến khi bị bắt phải chịu chung.
  87. Đồng tử đồng sanh.
    Ấy là tiếng giao ước thề nguyền. Sống thác cũng một lần, cho trọn nghĩa cùng nhau.
  88. Đống trấu nhà để gà người bươi.
    Nghĩa là việc nhà mình, để cho kẻ khác phanh phui ; chiếu ứng với câu đóng cữa dạy nhau
  89. Đứa ăn mắm đứa khát nước.
    Nghĩa là một đứa làm một đứa chịu.
  90. Đũa bếp khuấy nồi bung.
    Nghĩa là lểnh lảng không thiếp, hiểu nghĩa là nhỏ lắm không xiết việc lớn lắm, cũng như sức một người chèo thuyền cả giữa vời.
  91. Đứa có tình rình đức có ý.
    Thường sự những người có bụng gian hay là có ý trong mình, thì hay xem xét, mà nhứt là xem xét người có ý ; người vô sự thì là vô tâm. Tình ý cũng gần một nghĩa, té ra có ý xét có ý, có ý là có việc trong mình.
  92. Đứa dại làm, đứa khôn ăn.
    Đứa dại làm ra không biết giữ, hóa ra đứa khôn ăn đặng, hoặc đứa dại có công làm mà không đặng hưởng nhờ.
  93. Đứt đi mà nối, sao cho bằng mối xưa.
    Có ý nói về sự vợ chồng chắp nối, không mấy thuở gặp được chỗ tử tế như xưa.
  94. Đứt nối tối năm.
    Nghĩa là cứ việc mà làm, hay là gặp việc phải thì làm. Tĩ như khi chích đôi lẻ bạn, thì phải chắp nối.
  95. Đứt gióng nên phải tạm choàng.
    Còn một vế khác là lỡ duyên nên phải tạm nàng có con, câu trước là câu hứng, đều có nghĩa là tạm vậy.