Tờ thông cáo toàn quốc của Phan Bội Châu
Huế, ngày 10 tháng giêng, năm 1926
TỜ THÔNG CÁO
TOÀN QUỐC
CỦA
PHAN-BỘI-CHÂU
IMPRIMERIE DAC-LAP
BUI-HUY-TIN ET C
PHAN-BỘI-CHÂU
TỜ THÔNG CÁO TOÀN QUỐCNgày nay là ngày thứ nhứt tôi được tái-kiến quốc-dân đồng-bào ta, mà lại là ngày thứ nhứt tôi đã chết mà sống lại; trong tinh-thần tôi cảm sự khổ-thống, và được sự vinh-hạnh của quốc-dân ban cho, hình như hai đàng ngang nhau, khó bề cân-nhắc. Sực nghĩ lại từ khi bị bắt, đến khi ra Tòa, hơn năm tháng trời, tai không nghe được tiếng quốc-dân, mắt không trông được bóng quốc-dân, thân bó cảnh tù, hồn theo bạn quỷ, mà trong lòng tôi lại khoan-khoái hơn bây giờ; bởi vì trong khi ấy tôi nghĩ rằng: có lẽ cái nghĩa-vụ của tôi đối với quốc-dân may được nhờ nhịp này mà cáo vô-tội với quốc-dân vậy.
Nào ngờ đâu Chánh-phủ Bảo-hộ vì cái lòng thương yêu dân Nam-việt mà thương lây đến tôi là vô tội, không gia hình ngay, lại nhờ quan Toàn-quyền Varenne xin cho ân-xá, ngay hôm được ân-xá, quan Khâm sứ Trung-kỳ liền đón tôi về Kinh, đến Kinh rồi mới biết lúc tôi ở trong ngục, quốc-dân ta hoặc gửi thơ, hoặc đánh điện, hô hào cứu giúp; và khi quan Toàn-quyền mới bước chân đến Hà-nội, thời đồng-bào ta, kẻ đón sau, người đón trước, yêu cầu tha cho Phan-bội-Châu. Tôi được nghe tin ấy, kinh sợ bội phần, cho là nước ta có dân-khí thế này, thật là cái tia sáng rất mới mẻ trong Lịch-sử mấy ngàn năm mà tôi là người nào, được xoi dọi trước cả.
Tiếng oan đã vạch trời kêu thấu, sống thừa may còn đất trùng lai; thuộc về hai phương diện: Chánh-phủ vẫn là có cái đặc-ân nhân-từ khoan-đại, nhưng mà lòng tinh-thành ái-quần ái-chủng của anh em chị em ta, thật là thần quỉ cũng kinh, đá vàng cũng vũa, vì thế cho nên tôi đối với hai phương diện, đều lấy làm cảm-khích lắm lắm. Ở Kinh vừa vài hôm, đồng-bào quá thương, đến thăm rộn rực, nhứt là nam nữ học sanh cho đến các đoàn-thể, hoặc gởi thơ, hoặc hội diện, hoặc phủ-úy, hoặc trách-nan, vì lòng trung thành mà giạy bảo, vì lòng thương mến mà sinh lo, cảm tình nóng nẩy xem bằng người mẹ-hiền mới thấy được đứa con quý-báu; xui nên cái tinh-thần của tôi bây giờ chỉ có thống-khổ và lo sợ.
Tự nghĩ đến hơn hai mươi năm nay, bôn-tẩu việc nước, chỉ làm cho đồng-bào bị cái lụy dây dưa, mà kỳ thực đối với đồng-bào không có chút công may mối, rồi đến khi dấn mình vô trong lưới tội, lại không hay liều một cái chết để tạ quốc-dân, phụ ơn tham sống, tội thật đáng giết, còn nào mặt mũi, trơ tráo râu mày.
Nhưng đêm thanh bấm bụng hỏi mình, có một đều chưa đành tự-khí được, là chỉ có sự hoài-bảo của mình bấy lâu nay không thể nào mà quên được, chi bằng lo chuộc cái lỗi gĩ-vãng, gắng tính cái chước thiện-hậu mà thôi; vì vậy nay xin kính-cẩn trịnh-trọng phơi gan trải mật ở trước mặt đồng-bào ta, xin anh em đồng bào rất kính rất mến của tôi, thương xét mà lượng thứ cho vậy. Tôi từ trong khoảng năm Thành-thái ất-tỵ (1905), vì thấy Chánh-trị Báo-hộ, rất là không tốt, Đồng-bào ta bị áp ức so với đời chuyên-chế lại còn quá hơn, nóng lòng sốt ruột, bắt phải kêu van; mỏi miệng tắt hơi, hóa nên nhảy nhót; có lạ gì làm liều quá sức chắc trăm phần bại mà không một phần nên; nhưng biết đâu xưa nay cách-mệnh thành công dành phải nhờ quốc-dân để làm hậu-thuẩn; tức xem như trong khoảng thế-kỷ thứ 17 thứ 18, nước Pháp mấy lần cách mệnh mới có thể thay chuyên-chế làm cộng-hòa; huống chi đem cái trình-độ quốc-dân nước Pháp bấy giờ, so với trình-độ quốc-dân ta ngày nay, khác nào như trời với vực, ép đứa trẻ con ba tuổi mà bắt đi con đường vạn-lý, đường xa sức yếu, thế tất phải nguy-hiểm ngay. Tôi đã từng thí-nghiệm trong mười hai năm, biết rằng hậu-thuẩn không nương tựa vào đâu, thời chắc tiền đồ chỉ những là thất-bại, dục-tốc-bất-đạt, lẽ ấy đã rành rành, nếu mà liều lĩnh mãi hoài, thiệt là dẫn cho dân trong nước phải sai đàng lạc nẻo, dầu chỉ muốn cho thân mình được cái hư-danh anh-hùng hào-kiệt, mà khiến cho nước ta bị cái ác-quả mãn-kiếp trầm-luân, tự hỏi lương-tâm, làm người sao đáng?
Vì vậy tính đổi phương-châm, chú lực về cái phương diện làm sao cho quốc-dân ngày thêm tấn-bộ. Nhưng nghĩ rằng nếu muốn cho trình-độ quốc-dân ngày thêm tấn-bộ, thời phải bắt tay lo về đàng giáo dục mới được, mà muốn cải-lương sự giáo-dục, nếu không có thợ hay thầy giỏi thời cậy ai chỉ vẽ cho; người nước Pháp chính là những bậc thầy thợ tình cờ gập gỡ Trời đưa sang cho ta đấy.
Trong khoảng năm Tân-hợi hiệu Duy-tân (1911), nghe có quan Toàn-quyền Sarraut sang trọng-nhiệm nước ta, có hứa rằng sẽ cải-lương đường giáo-dục cho dân ta, mà Ngài cũng đã thi hành một đôi việc như là bỏ khoa-cử mở học-đường v. v...
Tôi ở ngoài ngàn muôn dặm, chưa rõ thiệt giả, đói đã lâu ngày nằm chiêm bao thấy cơm mà mừng cuống, phương-châm không đổi, còn đợi lúc nào? Bởi vậy năm 1917 xướng ra bài luận « Pháp-việt-đề-huề » đại ý nói rằng: muốn được cái đại giá văn-minh học-thức, tất phải bỏ vứt cái chủ-nghĩa phản-kháng đã chủ-trì từ trước mà đề-huề với người Pháp, vẫn biết rằng mình không ưa nô-lệ với cường-quyền, nhưng có lẽ nào mình lại không trung-thành với bậc sư hữu; nhân lý-tưởng ấy, tôi lại làm một bài « Dư cửu niên lai sở trì chi chủ-nghĩa » trong bài ấy khổ tâm tôi ngụ ý chỉ cốt có bốn chữ « Súc chủng đãi thời »
Thử xem cái gương trước của nước Ai-cập, Ấn-độ và Phi-luật-tân thời đủ biết rằng: trong thế-giới không có cái nước yếu nào mà mãi không độc-lập, lại cũng không có Chánh-phủ văn-minh nào mà câm không giáo-dục bao giờ; nếu Chánh-phủ thành-tâm giáo-dục cho ta, thời ta trung-thành với Chánh-phủ, cũng hiệp lẽ phải. Ấy là cái tư-tưởng của tôi sở dĩ chủ-trương về nghĩa Pháp-việt đề-huề vậy.
Tôi bây giờ được về mà làm một người dân trong nước, tự ý tôi vẫn nghĩ rằng: Chánh-phủ vì lấy công lý đối với dân Việt-nam mà xử-trí cho tôi như thế, chứ không phải vì cách lung lạc tôi mà đánh lừa dân Việt-nam, từ giờ trở về sau, tôi chỉ thể theo tấm lòng Chánh-phủ đối với dân Việt-nam, như đã nói trên kia, mà ra sức theo đòi cái chủ-nghĩa của tôi đã xướng ra từ trước. Ấy là cái hoài-bảo của tôi về sau nầy vậy... Đồng-bào ta gần đây vì thấy tôi được ra khỏi ngục không bị tử-hình, hoặc ngờ tôi vì sự cảm ơn ấy, mượn cái mỹ-danh “ Pháp-việt đề-huề, ” mà trang cái ác-tướng thay hình đổi lốt; xúm nhau trách bị, tôi cũng lấy làm ngượng mà khó trả lời. Tôi xin tự quyết thề trước mặt Quốc dân một lời rằng:
Cái hoàn-cảnh của tôi bây giờ tuy khác trước, mà tấm lòng ái-quốc của tôi thời trước sau cũng như một; cái chủ-nghĩa pháp-việt đề-huề là cái chủ-nghĩa tôi đề-xướng tự 10 năm nay, chứ không phải về đây vì được khỏi chết mà đề-xướng; tôi định đề-huề là đề-huề với cái Chánh-phủ khai-hóa cho dân Việt-nam, chớ không đề-huề với cái Chánh-phủ áp ức dân Việt-nam. Nhưng vì xa tổ-quốc lâu ngày, tôi bây giờ cần phải có thì giờ quan-sát rồi sẽ hành-động; nếu tôi quan-sát mà có thể làm được thì tôi sẻ thi-hành cái chủ-nghĩa của tôi; khi ấy tôi cũng hết lòng trông cậy anh em chị em đồng-bào ta tán-thành và giúp đỡ cho tôi được thành hiệu quả.
Tôi lại xin có một lời kính trình với Chánh-phủ bảo-hộ rằng: tôi lâu nay đã đành bỏ cái chủ-nghĩa phản-kháng mà xướng cái chủ-nghĩa đề-huề, thì tâm sự tôi thế nào Chánh-phủ cũng đã biết; nếu Chánh-phủ định áp chế dân Việt-nam thì tưởng nên lấy thế lực của Chánh-phủ mà thi-hành đi, không cần lợi dụng cái chánh-sách đề-huề của tôi làm gì; nếu Chánh-phủ nghĩ rằng pháp-việt đề-huề là có lợi ích cho dân hai nước, thì xin Chánh-phủ thi-hành cái lối đề-huề thật, cho dân-tộc Việt-nam dễ theo và tôi dễ theo, mà đến khi tôi hành động về chủ nghĩa ấy cho khỏi mang tiếng người ta trách là tôi bị lừa, và Chánh-phủ đánh lừa dân Việt-nam.
Tôi lại xin quốc-dân ta, nếu ai có đều gì ích lợi cho sự quan sát của tôi thời xin chỉ bảo cho tôi biết.
Tôi lại trông Chánh-phủ nếu nhận cho cái nghĩa đề-huề là phải, thì nên thi-hành sự đề-huề thật cho tôi được trông thấy.
Ấy là chánh-phủ và quốc dân có ơn tác-thành cho tôi càng hơn là cái ơn lấy công-lý mà tha tôi khỏi chết và yêu cầu cho tôi được tha vậy.
Huế, ngày mồng 10 tháng giêng năm 1926
PHAN-BỘI-CHÂU
發行所承天得立印館
|
潘佩珠通告國民書
|
|
行印館印立得 |
Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng ở Hoa Kỳ vì nó được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929.
Tác giả mất năm 1940, do đó tác phẩm này cũng thuộc phạm vi công cộng tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyền là cuộc đời tác giả và 80 năm sau khi tác giả mất hoặc ngắn hơn. Tác phẩm này có thể cũng thuộc phạm vi công cộng ở các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyền dài hơn nhưng áp dụng luật thời hạn ngắn hơn đối với các tác phẩm nước ngoài.