Tôi với Tản Đà thi sĩ

Tôi với Tản Đà thi sĩ  (1939) 
của Phan Khôi

Bài đăng trên Tao đàn, Hà Nội, số 9 và 10 (16 Juillet 1939), trang 805-810.

Vừa rồi Tản Đà thi sĩ về chầu Trời (nói thế cho oai và cũng cho có sách, nghĩa là dùng điển ở thơ ông)! Nghe tin, tôi cảm động lắm. Muốn tỏ tình đối với ông, tôi nghĩ nên có câu đối phúng hoặc hùn vào các báo một số tiền quyên giúp gia đình. Rút cục, hai thứ đều không có, vì lâu nay tôi không đặt câu đối được nữa và cũng nghèo như ông vậy. Tôi quyên bằng cái cách tỏ tình bằng “cây nhà lá vườn” mà mãi đến hôm nay tôi mới nhớ ra: Viết một bài trên báo kể sự quan hệ giữa ông và tôi từ trước, là một cách tiện đủ về mọi phương diện!

Tôi biết ông Nguyễn Khắc Hiếu từ năm 1918, khi tôi bắt đầu ở Hà Nội viết cho tạp chí Nam phong. Một đêm mùa xuân lạnh ngắt, tôi đương nằm đọc sách ở cái gác của nhà báo ấy ở Hàng Bông, tức là ngụ sở của ông Nguyễn Bá Trác bấy giờ. Bỗng có khách vào. Ông Trách giới thiệu cùng tôi: Đây, ông Nguyễn Khắc Hiếu, thì tôi như có điện chạy trong người, ghê rợn, vùng đứng dậy!

Thật thế. Cái tên Nguyễn Khắc Hiếu bấy giờ không phải vừa, đối với tôi lại càng long trọng lắm. Tôi nghe mà rùng rợn lên, có thế thật.

Số là sự trứ tác bằng quốc ngữ hồi đó còn ít lắm, ít lắm nữa là về mặt sáng tạo. Thế mà trước kia đọc Đông dương Tạp chí, tôi đã thấy những bài như Cái chứa trong bụng người của ông; lần ấy đến Hà Nội lại vừa gặp Giấc mộng con của ông xuất bản, tôi không thể nào không phục ông là tay đại tài. Tôi phê bình riêng trong trí thế này: “Anh Quỳnh, anh Vĩnh chỉ viết theo sách, theo tư tưởng của Tây; chứ đến thằng cha này hắn viết ra tư tưởng của hắn, chính hắn mới là tay sáng tạo!”

Thế mà chưa mấy! Đến vận văn của ông còn làm cho tôi như muốn nằm rạp xuống đất, không dám ngước mặt lên nữa kia! Tôi thường hay lấy giọng để ngâm những câu “Ngoảnh trông lên anh đếch thấy có ra gì” hay là “Mời khách hãy ngồi yên trong cõi tục” mà ngợp người đi. Vì trong khi ấy, tôi thấy Nguyễn Khắc Hiếu như ở trên cao rồi mà mình cũng lại như theo hắn mà ở trên cao nữa. Mình đáng lẽ nằm rạp xuống đất mà nay ở trên cao, làm sao chẳng ngợp.

Đêm ấy ba chúng tôi nói chuyện với nhau lâu. Thì ra tôi thấy ông Hiếu vui tính, hay cười và nhũn nhặn lắm. Sáng ngày ra, tôi liền khoe với ông Nguyễn Bá Trác: “Đêm qua tôi có gặp ông Tản Đà rồi!” Tôi lấy sự gặp được ông Hiếu làm hân hạnh, thật tình!

Trong thời kỳ đó tôi còn gặp ông một vài lần nữa, nhưng không có gì đáng ghi nhớ. Một điều tôi thấy chắc, là ông chẳng hề để tôi vào mắt ông. Đã thế thì mình cũng chẳng mong gặp người ta làm chi. Kế hai năm sau tôi ở Sài Gòn, rồi lại ở Hải Phòng, hình như tôi cũng đã quên ông ấy nữa.

Năm 1921 tôi trở lại Hà Nội mới bắt đầu cùng ông hơi thân. Kể ra tôi lúc ấy “hay rượu” lắm, uống nhiều mà không say; lại sính thơ, đến nỗi viết ra cuốn Nam âm thi thoại: nhờ hai cái đó mới bén với Tản Đà thi sĩ được.

Lần thứ nhất tôi uống với Tản Đà tại một quán ở hàng chả cá. Từ chín giờ sáng đến một giờ chiều, nói hết chuyện ấy sang chuyện khác, uống hết chai ấy sang chai khác, rồi hai chúng tôi thấy tâm đầu ý hiệp lắm, dần dần trở nên đôi bạn thiết.

Năm ấy Hữu thanh tạp chí ra đời, Tản Đà làm chủ bút. Ông muốn tôi có chân trong tòa soạn lắm, nhưng bị có người ngăn cản phải thôi. Tuy vậy trong mấy tháng đó hai chúng tôi cứ vài ngày lại hội riêng để uống rượu và đàm luận cùng nhau; và, tôi cũng có viết bài cho tạp chí ấy.

Chỗ chúng tôi hội là cái gác ở phố Bờ Sông, gần cột đèn, đến sau là cái gác của nhà báo Hữu thanh; cũng có mấy lần ở nhà cô đào Hàng Giấy.

Cái lối đánh chén của ông Hiếu kề cà, mất thì giờ lắm, tôi không chịu được, nên ít khi tôi ngồi trọn bữa rượu với ông. Ông đem hỏa lò để ở bàn mà tự làm lấy món ăn; có khi mãn một tiệc ăn, người nhà phải thay than trong hỏa lò đến năm sáu bận. Thường thường một mình ông vừa ăn uống lại vừa viết nữa. Ông cho có thế mới là thú. Có lần ở tại cái gác Hữu thanh, ông viết giấy mời tôi đến lúc mười giờ đêm, rồi uống mãi cho đến hai giờ sáng. Lần khác ở nhà cô đào Lân, ông và tôi, và một người bạn của ông nữa, chừng như ông Tú Tô[1] thì phải, uống từ mười một giờ đến năm giờ sáng mới về.

Có bữa chén ấy không thể nào quên được trong đời tôi. Ông cùng người bạn đến trước, chiếm một cái phòng nhỏ mà rất lịch sự ở trong cùng. Đoạn ông bắt cô Lân phải ăn mặc đàn ông ra đón tôi ở cửa. Cô Lân bấy giờ có tiếng lắm ở Hàng Giấy, cũng gọi bằng Thụy Khanh, lại có cô em tên là Đức. Tuy vậy, hôm ấy ông Hiếu ép cô Lân phải mặc trai ngồi uống rượu nói chuyện với chúng tôi như bốn người đàn ông, chứ không có cô Đức dự vào. Đến khi người bạn ra về trước, trong tiệc mới xoay lại làm hai cặp. Tôi còn nhớ trong lúc đó Thụy Khanh có ra một câu đố thách chúng tôi: “Đức bất cô, tất hữu lân”. Nhưng Tản Đà cùng tôi nhìn nhau, không đối được! Sau bất đắc dĩ tôi phải xin Thụy Khanh bớt cho ba chữ, ra “Đức hữu lân”; rồi tôi đối lại “Dân hưng hiếu” (Dân là một chữ trong bút tự của tôi).

Ông Hiếu làm chủ bút Hữu thanh đâu chừng nửa năm là ông từ chức. Sự ông từ chức, tôi cũng cho là phải, dù tôi tôi cũng không làm được, huống là ông ấy!

Từ khi ông Hiếu không ở Hà Nội nữa thì ông và tôi cũng xa nhau, xa cả mắt lẫn lòng. Tôi nghiệm ra ông với tôi không làm bạn lâu được, không phải tại gì mà tại tính cách hai người không giống nhau; thật có như Nguyễn Du nói: “Trong khi chắp cánh liền cành, mà lòng rẻ rúng đã đành một bên” đó vậy!

Lần đầu hết uống trong quán chả cá, say rồi, tôi rủ ông đi chơi mà ông thì đòi về đi nghỉ. Bấy giờ tôi cậy thân và cũng có chén rồi nên nói một cách như nộ nạt: “Uống say để rồi làm gì, chứ để đi nghỉ thì uống say làm chi?” Ông gượng cười rồi cùng đi về nhà trọ tôi ở Hàng Đào; ông ngủ trên gác cho đến chiều, còn tôi đánh tổ tôm ở nhà dưới.

Khi sắp làm chủ bút Hữu thanh, ông mở cuộc diễn thuyết, tức là cuộc diễn thuyết về “đời đáng chán hay không đáng chán”. Hôm sau diễn thuyết thì hôm trước có một người trong nhóm Hữu thanh dặn tôi rằng giữa lúc diễn thuyết hễ nghe vỗ tay thì cùng vỗ tay, tôi lấy làm quái; tôi mắng người ấy đã đành mà cũng nhân đó ngờ đến ông Hiếu nữa: một người quân tử sao lại có sự toa rập với nhau như thế? Đến sau tôi xét ra ông Hiếu bị lợi dụng, những sự sắp đặt ấy toàn ở người khác chứ không ở ông; nhưng cái cảm tình tôi đối với ông đã vì đó lợt lạt một vài phần rồi.

Bấy giờ báo còn bị kiểm duyệt. Bài thứ nhất tôi viết cho Hữu thanh là bài “Nghĩa làm dân” được ông khen lắm, nhưng bị kiểm duyệt xóa bỏ, không được đăng. Một hôm, giữa bữa rượu, ông nói cùng tôi rằng: “Đó, anh coi, tôi viết bao nhiêu bài không sao, còn anh mới viết một bài đã bị xóa, đủ biết ai có tài đáng làm chủ bút hơn”. Tôi vẫn biết ông nói chơi, nhưng nói chơi bằng một câu chẳng có ý cao thượng tí nào, làm cho tôi không thích.

Lần khác sau bữa rượu, ông hỏi tôi: “Anh ở một mình như thế thì… làm thế nào?” Tôi nói: “Tôi theo phác-xia chủ nghĩa. Tôi coi sự nam nữ là một sự cần cũng như phác-xia. Hễ tôi cần phác-xia là cứ đến nhà xia”. Thế rồi hai chúng tôi cùng đến một nhà ở phố Gia Ngư. Mỗi người làm việc của mình xong, bỗng có một nhân vật Đại Pháp đến làm lôi thôi, tôi toan dùng võ lực đối phó. Ông nhất định cản tôi, bắt phải về. Về nhà, ông giảng cho tôi nghe cái cử chỉ vừa rồi của tôi là cái cử chỉ võ phu, không nên có! Nhưng tôi không chịu, cãi lại rằng: “Đã đến thế rồi, còn sợ gì là võ phu nữa?” Thì ra đối với đạo đức, hai bên có quan niệm khác nhau: ông Tản Đà thì đi chơi đĩ được, nhưng không nên đánh lộn; còn tôi, đã đi chơi đĩ được thì đánh lộn cũng không từ!

Vì hai cái thái độ không thể dung nhan ấy làm cho hai chúng tôi khi biệt nhau rồi là thôi, không hề có thư từ cho nhau cả. Mãi đến sau, khi ông Hiếu vào Sài Gòn thì tôi chưa có ở đó. Kịp lúc tôi ở Sài Gòn, có gặp ông ở Bắc vào một bận, thì hai người vẫn tay bắt mặt mừng như xưa mà tâm tình đã thấy có chỗ cách biệt với nhau rất xa. Đó rồi ông về, lên án đòi chém Phan Khôi trong An Nam tạp chí.[2]

Tôi biết ông Tản Đà là người thông minh, có thiên tài, nhưng không chịu học. Ông tự cho ông như thế là đến nơi rồi, không còn tiến bộ gì nữa; bởi vậy ông thấy đời không được rõ. Biết như thế nên tôi đã thật tình nhịn thua ông đi, ông đòi chém tôi mà tôi chẳng hề cãi lại nửa lời.

Thế thì làm sao hồi đầu hai chúng tôi hiệp nhau được? Phải, chúng tôi hiệp nhau ở cái chỗ đại tiết.

Lần uống rượu ở quán chả cá, chúng tôi thảo luận về cách ở đời của chúng tôi nên làm sao. Ông Hiếu và tôi đều rập nhau nói: “Chúng ta nên gắng làm đại trượng phu!” Rồi mỗi đứa đọc đoạn này trong sách Mạnh Tử: “Cư thiên hạ chi quảng cư; lập thiên hạ chi chính vị, hành thiên hạ chi đại đạo; đắc chí dữ dân do chi bất đắc chí độc hành kỳ đạo; phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy võ bất năng khuất: thử chi vị đại trượng phu” mà cười phá lên và uống cạn chén mình. Trong khoảnh khắc ấy chúng tôi thấy chúng tôi hào hoa vô cùng, phong nhã vô cùng, vĩ đại vô cùng thì làm sao chẳng trở nên một đôi bạn đồng tâm cho được? Mà bây giờ đây, tuy một mất một còn, hai chúng tôi cũng vẫn cứ hiệp nhau ở chỗ ấy chứ sao?

Ông Tản Đà ơi! Đại trượng phu!...

Chúng ta có là đại trượng phu không, ông Tản Đà?

PHAN KHÔI

   




Chú thích

  1. ông Tú Tô: có lẽ là Đặng Đức Tô (?-?) người đã cùng Tản Đà và Nghiêm Thượng Văn lập ra Tản Đà thư điếm (1922)
  2. Năm 1927, Tản Đà vào Sài Gòn gặp Diệp Văn Kỳ thì Phan Khôi còn ở Cà Mau. Năm 1928 Tản Đà cùng Ngô Tất Tố vào Sài Gòn làm phụ trang Văn chương cho Đông Pháp Thời Báo của Diệp Văn Kỳ thì Phan Khôi cũng đã về Sài Gòn và viết cho tờ báo này. Cuối 1929 đầu 1930, Tản Đà và Ngô Tất Tố về Bắc. Năm 1932,Tản Đà viết trên An Nam Tạp Chí một loạt 4 bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ, phản đối quan điểm của Phan Khôi trong các bài báo Cái cười của con rồng cháu tiênTống Nho với phụ nữ.