Tô Huệ hồi văn  (1896) 
của Tô Huệ, do Trương Minh Ký dịch

Bản dịch trong sách Ca từ diễn nghĩa của Trương Minh Ký xuất bản năm 1896.

君承皇詔安邊戍 送君送別河橋路
 含悲掩淚贈君言 莫忘恩情便長去
何期一去音信斷 意妾屛幃春不暖
 瓊瑤階下碧苔空 珊瑚帳裡紅塵滿
此時道別每驚魂 將心何托更逢君
 一心願作滄海月 一心願作嶺頭雲
嶺雲歲歲逢夫面 海月年年照得遍
 飛來飛去到君傍 千里萬里遙相見
迢迢路遠關山隔 恨君塞外長爲客
 此時送別蘆葉黃 誰信幾經梅花白
百花散乱逢春早 春意催人向誰道
 垂楊滿地爲君扳 落花滿地無人掃
庭前春早正芬芳 抱得秦筝向畫堂
 爲君彈得江南曲 附寄情深到朔方
朔方迢逓山河越 萬里音書長斷絕
 銀裝枕上淚沾衣 金縷羅裳花皆裂
三春鴻鴈渡江声 此是離人斷腸情
 筝絃未斷腸先斷 結怨先成曲未成
君今憶妾重如山 妾亦思君不暫閒
 織將一本獻天子 願放兒夫及早还

TÔ HUỆ HỒI VĂN

Quân thừa hoàng chiếu An-biên thú, Tống quân tống biệt Hà-kiều lộ,
Hàm bi yểm lụy tặn quân ngôn, Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
Hà kỳ nhưt khứ âm tín đoạn, Ý thiêp bình vi xuân bât noản,
Quỳnh diêu giai hạ bich đài không, Sang hô trướng lý hồng trần mản.
Thử thời đạo biệt mổi kinh hồn, Tương tâm hà that cánh phùng quân,
Nhưt tâm nguyện tac thương hải nguyệt, Nhưt tâm nguyện tac lảnh đầu vân.
Lảnh vân tuế tuế phùng phu diện, Hải nguyệt niên niên chiếu đăc biên,
Phi lai phi khứ đáo quân bàn, Thiên lí vạn lí diêu tương kiến.
Điều điều lộ viển quan sơn cach, Hận quân tăc ngoại trường vi khach,
Thử thời tống biệt lư diệp hoàng, Thùy tín kỉ kinh mai huê bạch?
Bá huê tán loạn phùng xuân tảo, Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo?
Thùy dương mản địa vị quân phan, Lạc huê mản địa vô nhơn tảo.
Đình tiền xuân tảo chánh phân phương, Bảo đăc Tần-tranh hướng Họa-đường,
Vị quân đàn đăc Giang-nam khuc, Phụ ký tình thâm đáo soc phương.
Soc phương điều đệ sơn hà việt, Vạn lí âm thơ trường đoạn tuyệt,
Ngân trang chẩm thượng lụy chiêm y, Câm lủ la thường huê giai liệt.
Tam xuân hồng nhạn độ gian thinh, Thử thị li nhân đoạn trường tình,
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn, Hoán kiêt tiên thành khuc vị thành.
Quân kiêm ưc thiêp trọng như san, Thiêp diệc tư quân bât tạm nhàn,
Chưc tương nhưt bổn hiến Thiên-tử, Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn.

Chàng vâng hoàng chiếu thú An-biên, Đưa tới Hà-kiều rẻ thảm riêng,
Ngậm thở ngùi than ngừng dọt lụy, Ân xa tình cach chớ hề quên.
Đi ra tin dưt có dè sao, Màng trướng dầu xuân ấm đặng nào,
Dưới bực quỳnh diêu rêu biêc lán, San hô trong trướng bụi hồng bao,
Nói lìa thuở ấy băt kinh hoàng, Đem gởi lòng đâu gặp lại chàng,
Lòng ươc làm trăng ngoài biển cả, Hoặc làm mây moc chot cao san.
Mây moc hằng năm thấy mặt chồng, Hằng năm trăng biển dọi soi cùng,
Bay đi bay lại cho gần được, Muôn dặm thấy nhau kẻo đợi trông.
Đàng sá vơi vơi cach trở thay, Hờn chàng ngoài ải ở lâu ngằy,
Thuở đi đưa đó lau vàng lá, Ai ngở hoa mai nở bấy chầy.
Trăm hoa rộn rực sớm chào xuân, Ai đó mà xuân dục kẻ than,
Đầy đât dương sà vì đó vén, Bông rơi không kẻ quet đầy đàng.
Thiệt thơm xuân sớm lối ngoài vườn, Ôm lấy Tần-tranh tới Họa-đường,
Ngâm khuc Giang-nam vì đó khảy, Tình sâu xin gởi thấu lòng chàng.
Băc phương hiểm trở vượt non sông, Muôn dặm thơ từ dưt nẻo thông,
Trăp bạc gối đầu dầm áo lụy, Chỉ vàng xiêm dẻ thảy xừi bông.
Ba xuân hồng nhạn tiếng qua sông, Ấy đó người lìa đưt ruột trông,
Chưa đưt dây đờn, lòng đả đưt, Đả xong mối thảm, khuc chưa xong.
Chàng nay nhớ thiêp nặng bằng non, Thiêp củng nhớ chàng mổi phut luôn,
Một bổn dệt đem dưng kính chúa, Cầu tha chồng thiêp sớm về cùng.

TÔ HUỆ HOI VAN

文廽惠蘇

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.