TRẤN TÂY NGUYÊN THIẾT, 鎭西原設

ancien cambodge.

Hiệu Gia-long năm thứ mười hai, chỉ chuẩn cho Khâm sai cai cơ Nguyễn-văn-Thoại, giữ thành Nam-vang, làm Bảo hộ nước Cao-mên.

Lại y lời tấu, chuẩn cho cai bộ trấn Vỉnh-thanh, là Nguyễn-xuân-Thục, hiệp cùng Nguyễn-văn-Thoại, giữ thành Nam-vang cùng Bảo hộ Vua Cao-mên.

Hiệu Minh-mạng năm thứ hai, chiếu cho Khâm sai Thống chế Nguyễn-văn-Thoại, coi giữ đồn Châu-đốc, Bảo hộ nước Cao-mên, lại lảnh luôn công việc trấn Hà-tiên.

Năm thứ mười bốn, dụ cho quan Hộ bộ Thượng thơ, là Trương-minh-Giãng, đổi làm Binh bộ Thượng thơ, lãnh làm An-hà Tổng đốc, kiêm Bảo hộ Cao-mên quấc ấn.

Năm thứ mười lăm, đặt thừa biện Nam-vang thành, chánh cửu phẩm thơ lại 1, vị nhập lưu 10.

Năm thứ mười sáu, dụ cho quan Tuần phủ Lê-đại-Cang, hiệp tùng Tổng đốc Trương-minh-Giãng, lảnh luôn việc Bảo hộ nước Cao-mên.

Lại chuẩn Hàn-lâm viện thừa chỉ 2; tu soạn 3; kiểm thảo 3; chánh bát phẩm thơ lại 6; chánh cửu phẩm thơ lại 6; tiền vãn Nam-vang thành sai phái.

Lại dụ cho bảo An-nam thuộc về thành Nam-vang, cải làm thành Trấn-tây.

Đặt Trấn-tây tướng quân, trật chánh nhứt phẩm, hoặc đặt quan tùng nhứt phẩm: Tham tán đại thần 1, chánh nhì phẩm; Hiệp tán cơ vụ 1, chánh tam phẩm; binh bị đạo, lương từ đạo, đều 1 người, trật chánh tứ phẩm; an biên ti, viên ngoại 2, đều chánh ngủ phẩm; chủ sự 3, chánh lục phẩm; tư vụ 4, chánh thất phẩm; chánh bát, cửu phẩm thơ lại, đều 8 người; vị nhập lưu thơ lại 16; giáo thọ 10, trật chánh thất phẩm; huấn đạo 10, trật chánh bát phẩm.

Năm thứ mười tám, chuẩn cải Sơn-bốc phủ, làm Sơn-định phủ; nguyên Cù-lâm phủ, làm Mỷ-tài phủ. Còn các chỗ thuộc về Hãi-tây, là Âu-ca, Vọng-vân, Du-trung, Ý-dĩ, Ngọc-bài; các chỗ thuộc về Hãi-đông, là Châu-tài, Bình-xiêm, Ca-thi, Phước-lai; các chỗ thuộc về phủ Sơn-định, là Sơn-phố, Sơn-trung, Trưng-thoại, Hoa-lâm, Quế-lâm; các chỗ thuộc về phủ Quảng-biên, là Khai-biên, Kim-trường, cả thảy 16 phủ đều cải làm huyện.

Lại nghị Hãi-tây, Hãi-đông, Sơn-định, Quảng-biên 4 phủ, mỗi phủ có 4, 5 huyện; đặt chức Tuyên phủ sứ 1 người, dùng quan tam phẩm làm quản lãnh, hoặc dùng bậc nhỏ hơn sung biện.

Bộ thuộc: tri sự 1; lại mục 2; vị nhập lưu thơ lại 10; các phủ khác cũng gần như vậy.

Năm thứ hai mươi mốt, y lời tấu chuẩn cho cả hạt Trấn-tây, tùy địa thế cùng dân số nhiều ít, đặt làm Nghi-hòa, Nam-ninh, Võ-công, Hãi-tây, Ninh-thới, Hãi-hòa, Hà-bình, Sơn-tịnh, Mỷ-tài, cả thảy 10 phủ; còn lại Thái-an, Đồng-lâm, Thượng-phong, Phong-tương, Nam-thạnh, Phò-nam, Nam-thới, Bình-xiêm, Kỳ-tô, Trưng-thoại, Hãi-bình, Du-trung, Ngọc-bi, Giang-hữu, Thới-thạnh, Hãi-ninh, Tập-vinh, Trung-hà, Phước-lai, Quế-lâm, Sơn-đông, Mỷ-tai, Hoa-lâm, cả thảy 23 huyện. Trong ấy Hãi-tây, Ninh-thới 2 phủ, đều do chức Tuyên phủ sứ Hãi-tây quản hạt; Hãi-hòa, Hà-bình 2 phủ, đều do chức Tuyên phủ sứ Hãi-hòa quản hạt; Sơn-tịnh, Mỷ-tài 2 phủ, đều do quan Tuyên phủ sứ Sơn-tịnh quản hạt.

Lại nghị chuẩn Thái-an, Thượng-phong, Nam-thạnh, Bình-xiêm, Hãi-bình, Ngọc-bi, Hãi-ninh, Trung-hà, Quế-lâm, Mỷ-tài 10 huyện đều trừ ra để cho phủ kiêm lý, không phái huyện; Du-trung, Hoa-lâm 2 huyện đã có người quyền thự cũng trừ ra; còn 11 phủ, huyện khác, đều đặt tri phủ, tri huyện, giáo thọ, huấn đạo.

Hiệu Thiệu-trị năm thứ hai, tài tỉnh các quan lại đã đặt tại Trấn-tây.