LÚC BIỆT LY

Ngoài đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dười-dượi[1] buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền[2] 1.
Nước có chảy mà phiền chẳng tả,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi, nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước giây giây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo giọi,
Chàng sầu xa tìm cõi Thiên-san 2.
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo 3.
Săn Lâu-lan rằng theo Giới-tử 4,
Tới Man-khê bàn sự Phục-ba 5.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc[3] ngựa lần xen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà lương 6 chia rẽ đường này này,
Bên đường trông lá cờ bay ngùi-ngùi.
Quân trước đã gần ngoài doanh[4] Liễu 7,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng-dương 8.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu-dương biết thiếp đoạn trường này chăng 9?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
Hàng cờ bay trông bóng phất-phơ.

Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn dặng núi ngẩn-ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngàn,
Tuôn mầu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm-dương 10 chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu-tương 11 thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu-tương cách Hàm-dương,
Cây Hàm-dương cách Tiêu-tương mấy trùng.
Cùng ngoảnh lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.

CHÚ THÍCH. — 1. Tả cái tâm-cảnh người chinh-phụ đưa chồng, bấy giờ tự giận mình không được bằng cái thuyền ở dưới nước, con ngựa ở trên bộ được cùng đi với người chinh-phu. — 2. Điển cũ: Tiết-nhân-Quí đi đánh Cao-ly, bắn ba phát tên hạ được Thiên-sơn. Đây nói tìm cõi Thiên-sơn là tìm tới chỗ giặc ở. — 3. Điển cũ: Ban-Siêu đi sứ Tây-vực về đến nước Thợn-thợn, nghe trong nước ấy có loạn, Siêu nói: Không liều vào hang beo không bắt được beo con. Đêm lẻn vào phá tan được giặc, thu phục được nước ấy. Đây nói ngàn hang beo là nói trận-mạc nguy-hiểm. — 4. Vua Lâu-lan giết quan sứ nhà Hán, ông Giới-tử lập mưu giả đò đem vàng ngọc vào dâng vua Lâu-lan rồi sai tráng-sĩ chém chết. — 5. Mã Phục-ba (Mã-Viện) là lão-tướng nhà Hán đánh được Man-khê. — 6. Là cầu sông. Có câu thơ cổ: chia tay nhau ở hà lương, nên thường cứ nói hà lương là nơi tống biệt. — 7. Chu-ác-Phu đem quân đi chống Hung-nô, đóng dinh Tế-liễu. — 8. Về đời Hán bên Tàu thường phải kéo quân ra ngoài cửa ải cự giặc Hồ. Tràng-dương là nơi gần cửa ải. — 9. Câu thơ cổ: Nhớ chồng vin cành dương liễu cho khuây. — 10. Tức là Hàm-kinh, kinh thành nước Tàu về đời Tần. — 11. Tên một con sông lớn về phần đất Sở. Xưa Tàu đóng kinh-đô ở Hàm-dương, người Tàu cho đất Sở là một nơi xa-xôi cách trở lắm, nên nhà văn Tàu tả cảnh biệt-ly thường dùng tiếng Tần Sở, tiếng Hàm-dương Tiêu-tương là hai nơi cách xa nhau lắm.

   




Chú thích

  1. Giặc giặc. —
  2. Ghe. —
  3. Đạc. —
  4. Dinh.