THIÊN V

NHỮNG SÁCH CỦA KHỔNG-TỬ

Khổng-tử lúc trở về nước Lỗ, không cầu ra hành-chính nữa, ở nhà dạy học và san định các sách-vở của cổ-nhân để lại. Ngài nói rằng: « Ngô tự Vệ phản Lỗ, nhiên hậu Nhạc chính, Nhã Tụng các đắc kỳ sở 吾 自 衛 反 魯,然 後 樂 正,雅 頌 各 得 其 所: Ta từ nước Vệ trở về nước Lỗ, vậy sau kinh Nhạc mới chính và thiên Nhã, thiên Tụng, trong kinh Thi mới xếp đặt đâu ra đấy ». (Luận-ngữ: Tử-hãn, IX). Chủ ý Ngài là muốn phát-huy cái đạo của thánh hiền đời trước ra và đem mà dạy người, chứ không phải là tạo-tác ra cái đạo mới. Ngài nói rằng: « Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão-Bành 述 而 不 作,信 而 好 古,竊 比 於 我 老 彭: Thuật lại cái đạo của thánh hiền mà tự mình không tạo-tác ra cái gì, tin mà thích đạo đời xưa, ta trộm ví như ông Lão-Bành ». (Luận-ngữ: Thuật-nhi, VII). Lão-Bành là quan đại-phu giỏi đời nhà Thương, hay thuật lại những việc đời xưa, mà không làm ra cái gì mới lạ.

Cái đạo của thánh hiền đời xưa ghi chép ở cả trong những sách: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc. Ngài xem kỹ những sách ấy, rồi giải-thích những chỗ khó hiểu, để phát-minh cái nghĩa sâu xa ra, hoặc xếp đặt lại cho rõ-ràng. Ngài lại làm ra bộ sách Xuân-thu để bày tỏ những cái quan-niệm của Ngài về đường chính-trị. Sách của Ngài soạn ra tất cả có sáu bộ, đời sau gọi là lục Kinh 六 經.

Sau khi Khổng-tử mất rồi, những sách ấy cũng đã mất-mát đi ít nhiều, rồi đến đời nhà Tần, lại có việc đốt sách, thành thử các sách của Ngài phần thì lâu ngày mất đi, phần thì bị đốt hại, không còn được bao nhiêu. Đến đời nhà Hán đạo Nho hưng-thịnh lên, vua sai tìm nhặt các sách, thì không tìm được quyển nào còn nguyên nữa. Nhất là kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có một thiên, sau đem vào bộ Lễ-ký, đặt là thiên Nhạc-ký. Kinh Lễ cũng thiếu nhiều, bọn Hán-nho mới đem phụ-họa thêm vào, để làm ra bộ Lễ-ký. Hiện nay những sách ấy tuy có sai lạc đi nhiều, nhưng hậu-nho đã góp nhặt và phụ-họa vào thành ra năm Kinh là: kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, kinh Lễ, và kinh Xuân-thu.

Kinh Dịch. — Dịch là sách tượng số để bói-toán xem cát hung và lại là sách lý-học, giải-thích lẽ biến-hóa của trời đất và sự hành-động của muôn vật, tức là bộ sách rất trọng-yến của Nho-giáo. Nguyên người Tàu về đời thượng-cổ tin rằng ở trong trời đất có lẽ âm, lẽ dương, lúc ẩn lúc hiện, không biết thế nào mà so lường được. Lẽ âm lẽ dương bất-trắc ấy là quỉ thần, thường can-thiệp đến việc lành việc dữ của người ta, cho nên khi có công việc gì là phải bói để xem ý quỉ thần. Cách bói thì dùng mai rùa gọi là bốc 卜 hay là dùng cỏ thì gọi là phệ 筮.

Vua Phục-hi (4477-4363 trước Tây-lịch kỷ-nguyên) nhân có Hà-đồ mới vạch thành ra quẻ. Lấy cái vạch liền ⚊ mà biểu-thị lẽ dương, và cái vạch đứt ⚋ mà biểu-thị lẽ âm. Dương là cơ, âm là ngẫu. Mỗi cái vạch liền hay cái vạch đứt gọi là một hào. Xếp ba hào, hoặc vạch liền cả, hoặc vạch đứt cả, hoặc vạch liền xếp lẫn với vạch đứt, đặt thành ra bát quái 八 卦 là: Kiền 乾 ☰ (trời), Đoái 兌 ☱ (đầm), Ly 離 ☲ (lửa), Chấn 震 ☳ (sấm), Tốn 巽 ☴ (gió), Khảm 坎 ☵ (nước), Cấn 艮 ☶ (núi), Khôn 坤 ☷ (đất). Tám quẻ ấy xếp theo thứ-tự như thế, gọi là: Tiên thiên bát quái 先 天 八 卦. Lấy mỗi quẻ trong tám quẻ ấy là lần lượt đặt chồng lên nhau, thành ra 64 quẻ. Mỗi quẻ có 6 hào, như Kiền ䷀ Khôn ䷁, Truân ䷂, v. v. Ba vạch dưới là quẻ nội, ba vạch trên là quẻ ngoại.

Đến đời vua Hạ-Vũ (2205-2167 trước tây-lịch kỷ-nguyên) nhân có Lạc-thư mà đặt ra Cửu trù 九 疇, để làm biểu lý với bát quái của vua Phục-hi. Những quẻ của vua Phục-hi là để vẽ các tượng âm dương ra; những trù của vua Vũ, là để tính cái số ngũ hành là: Thủyhỏamộc kimthổ 土.

Những quẻ Dịch đời trước để lại, chỉ vẽ ra thành quẻ mà không có văn-tự. Chắc là thuở ấy những người học Dịch chỉ học truyền miệng mà thôi, vì cái học ấy chính là cái học tâm-truyền vậy. Mãi đến đời vua Văn-vương nhà Chu, khi Ngài phải giam ở ngục Dữu-lý (1144-1142), ngài mới diễn lại những quẻ Dịch mà đặt ra Hậu-thiên bát quái 後 天 八 卦 xếp theo thứ-tự như sau này: Kiền 乾 ☰ (cha), Khảm 坎 ☵ (trung-nam), Cấn 艮 ☶ (thiếu-nam), Chấn 震 ☳ (trưởng-nam), Tốn 巽 ☴ (trưởng-nữ), Ly 離 ☲ (trung-nữ), Khôn 坤 ☷ (mẹ), Đoái 兌 ☱ (thiếu-nữ). Ngài lại theo hình từng quẻ mà cắt nghĩa cái toàn ý cả quẻ ra, gọi là Thoán-từ 彖 辭 để định nghĩa cát hung trong một quẻ. Đến đời con Ngài là Chu-công Đán lại cắt nghĩa từng hào trong quẻ, gọi là Hào-từ 爻 辭 để định nghĩa cát hung trong một hào. Song sự học Dịch là sự học tâm-truyền, chỉ để người nọ truyền cho người kia mà thôi, cho nên những lời của Văn-vương và Chu-công dùng để cắt nghĩa rất là vắn tắt và có lắm câu ý nghĩa xa xôi, lơ-lửng, thật khó hiểu. Ấy là kinh Dịch trước đời Khổng-tử chỉ có thế mà thôi.

Đại đề, những quẻ Dịch là nhân sự biến đổi của âm dương mà đặt ra, để xem sự cát hung, tất là chủ về sự bói toán. Trong 64 quẻ Dịch đều nói cái lẽ cát hung tiêu trưởng và cái đạo tiến thoái tồn vong (吉 凶 消 長 之 理,進 退 存 亡 之 道). Thánh-nhân đời trước hình như có ý đem những lẽ ấy mà xét sự thịnh suy hay dở ở đời, để khuyên răn người ta. Xem như quẻ Thái, quẻ Bĩ, quẻ Kiền, quẻ Giải, đều ngụ cái ý ấy cả. Trong quẻ nào cũng chỉ có âm dương biến hóa thay đổi. Dương là cái biểu-hiệu chỉ Trời, chỉ quân-tử, chỉ cái mạnh, cái sáng, sự hay, đời thịnh; âm là cái biểu-hiệu chỉ đất, chỉ tiểu-nhân, chỉ cái yếu, cái tối, sự dở, đời suy. Âm dương tức là hai cái tương đối nhau để sinh hóa trong vũ-trụ. Cho nên xem Dịch thì phải hiểu rằng không bao giờ có cái gì là đơn-nhất tuyệt-đối: đạo âm không phải là bao giờ cũng tiểu-nhân, hễ có hại cho đạo dương, thì mới là tiểu-nhân, chứ giúp được cho đạo dương, thì lại là quân-tử; cũng như điều lợi không phải là bao giờ cũng bất thiện, hễ có hại cho điều nghĩa, thì mới là bất thiện.

Vậy nói Dịch là nói sự biến đổi để theo đạo. Đạo ấy là nhân nghĩa trung chính: theo đạo ấy là theo lẽ phải, lẽ hay mà sửa mình, chứ không phải theo đạo ấy để làm những điều trái lẽ công chính. Cho nên mới nói rằng: « Dịch vi quân-tử mưu, bất vi tiểu-nhân mưu 易 爲 君 子 謀,不 爲 小 人 謀.Đạo Dịch chỉ mưu cho người quân-tử, chứ không mưu cho kẻ tiểu-nhân ».

Đến đời Khổng-tử, Ngài mới theo những Thoán-từ của Văn-vương và Hào-từ của Chu-công, và lấy nhân-sự thiết-thực mà cắt nghĩa thêm ra cho rõ, tức là Thoán-truyện 彖 傳 và Tượng-truyện 象 傳. Giải cái tượng cả quẻ, gọi là đại-tượng 大 象, giải cái tượng một hào, gọi là tiểu-tượng 小 象. Ngài sợ rằng cắt nghĩa như thế chưa đủ. Ngài lại làm thêm những thiên: Hệ-từ-truyện 繫 辭 傳, Văn-ngôn-truyện 文 言 傳, Thuyết-quái-truyện 說 卦 傳, Tự-quái-truyện 序 卦 傳, Tạp-quái-truyện 雜 卦 傳, gồm tất cả là mười thiên, gọi là Thập-dực 十 翼, hay là Truyện 傳, Ngài lại lấy nghĩa lý mà phân kinh Dịch ra làm thượng hạ hai thiên, gọi là Thượng-kinh 上 經 và Hạ-kinh 下 經. Thượng-kinh thì để quẻ Kiền, quẻ Khôn lên đầu, vì rằng Kiền và Khôn là bản thủy của âm và dương, tôn-tổ của vạn vật (Kiền Khôn giả âm dương chi bản thủy, vạn vật chi tổ tôn 乾 坤 者 陰 陽 之 本 始,萬 物 之 祖 宗). Hạ-kinh thì để quẻ Hàm, quẻ Hằng lên đầu, vì rằng Hàm và Hằng là cái mối đầu của nam nữ, cái đạo của vợ chồng (Hàm Hằng giả nam nữ chi thủy, phu phụ chi đạo 咸 恆 者 男 女 之 始,夫 婦 之 道); nhân-đạo do ở đó mà hưng-thịnh lên vậy.

Từ đó, kinh Dịch có 2 thiên Kinh và 10 thiên Truyện, cả thảy là 12 thiên.

Trong những thiên Truyện, Khổng-tử giải thích rõ-ràng các ý nghĩa sâu xa ở kinh Dịch và phát-huy những cái tư-tưởng uyên-áo về tạo-hóa và những quan-niệm đặc-biệt về vũ-trụ và vạn vật. Ngài lập thành cái nền lý-học của Nho-giáo. Về sau các nho-giả đời Tống đều sở cứ vào kinh Dch mà thiếp-lập ra các học-thuyết rất có giá-trị. Khổng-tử nói rằng: « Phù Dịch khai vật, thành vụ, mạo thiên-hạ chi đạo, như tư nhi dĩ. Thị cố thánh-nhân dĩ thông thiên-hạ chi chí, dĩ định thiên-hạ chi nghiệp, dĩ đoán thiên-hạ chi nghi 夫 易 開 物,成 務,冒 天 下 之 道,如 斯 而 已.是 故 聖 人 以 通 天 下 之 志,以 定 天 下 之 業,以 斷 天 下 之 疑: Dịch là để mở ra muôn vật, thành được mọi việc, bao-quát được cái đạo của thiên-hạ. Cho nên thánh-nhân dùng đạo Dịch để thông được cái chí của thiên-hạ, định được công-nghiệp của thiên-hạ, đoán được cái ngờ của thiên-hạ ».

Xét trong sách Chu-Lễ thì đời nhà Chu có quan Thái-bốc 太 卜 coi tam Dịch: Liên-sơn Dịch 連 山 易 là Dịch của nhà Hạ, lấy quẻ Cấn làm đầu; Qui-tàng Dịch 歸 藏 易 là Dịch của nhà Thương lấy quẻ khôn làm đầu; và Chu Dịch 周 易 là Dịch của nhà Chu, lấy quẻ Càn làm đầu. Về sau Liên-sơn Dịch và Qui-tàng Dịch mất đi, chỉ còn lại có Chu Dịch, tức là kinh Dịch truyền đến ngày nay. Vậy lúc đầu sách Dịch tuy có phần bí-truyền nói về đạo-lý, nhưng vẫn chủ về việc bốc-phệ, rồi đến Khổng-tử mới giảng rõ thêm phần đạo-lý hơn trước. Nghĩa là từ đời trước đến đời Khổng-tử, thì tuy có tựa vào phần đạo-lý mà giáo-hóa, nhưng vẫn chuyên về phần bốc-phệ hơn; từ đời Khổng-tử về sau, thì dẫu còn có phần bốc-phệ, nhưng lại thiên-trọng về mặt đạo-lý hơn. Song, đại để bao giờ kinh Dịch cũng bao hàm cả hai phần ấy, chỉ khác có một điều là về đời thượng-cổ, người ta hãy còn chất-phác, trí-lự chưa được mở-mang, cho nên thánh-nhân chỉ lấy việc bốc-phệ mà dạy người, để biết điều lành thì làm, điều dữ thì tránh. Về sau dần dần nhân trí mở-mang ra, thánh-nhân tuy vẫn lấy bốc-phệ để khiến người ta quyết-định về việc nên làm hay không, nhưng lại nhân đó mà đem nghĩa lý sâu xa giảng dạy cho người ta hiểu để làm điều thiện. Trước sau tuy cái hình-thức có khác nhau, nhưng cái tinh-thần vẫn là một. Có một điều ta nên biết, là bao giờ trong kinh Dịch vẫn không bỏ bốc-phệ, vì rằng người đời xưa vốn có cái lòng tín-ngưỡng về cái lẽ Trời và người cảm ứng với nhau (天 人 感 應 之 理). Cái lẽ ấy là cái nguyên-ủy của Nho-giáo, cho nên những ý nghĩa tinh-vi như chữ nhân 仁, chữ trung 中, chữ thành 誠, và cái thuyết tính thiện đều căn-nguyên ở lẽ ấy mà ra cả. Học-giả về sau hoặc có người nệ về thuật-số, chỉ chú ý về việc bói toán, như tính Thái-ất, xem số Hà-lạc v. v., bỏ không xét đến cái phép hoằng-thông giản-dị của đạo Dịch, hoặc có người vì khinh việc bốc-phệ mà chỉ chuyên-trị về mặt nghĩa lý, chìm đắm vào cõi hư-vô tịch-mịch, trái với đạo nhân nghĩa trung chính, đều là không hiểu cái ý của thánh-nhân cốt tùy thời mà lập giáo. Tùy thời mà thuận, tùy thời mà chống lại, chữ thời 時 phải có đủ hai nghĩa ấy. Bởi thế cho nên mới nói rằng: « Dịch đạo chỉ thị thời 易 道 只 是 時: Đạo Dịch chỉ có chữ thời mà thôi ». Có hiểu được chữ thời thì mới hiểu được đạo Dịch.

Khổng-tử học Dịch mất nhiều công-phu lắm. Khi Ngài đã già, Ngài xem kinh Dịch đến ba lần đứt lề, mới làm ra các thiên Truyện (Khổng-tử vãn nhi học Dịch, độc chi vi biên tam tuyệt, nhi vi chi Truyện 孔 子 晚 而 學 易,讀 之 韋 編 三 絶,而 爲 之 傳). Thế mà Ngài còn nói rằng: « Gia ngã sổ niên, tốt[1] dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hỹ 加 我 數 年,卒 以 學 易,可 以 無 大 過 矣: Giá cho ta thêm được mấy năm nữa, để ta học Dịch cho trọn vẹn, thì khả dĩ không có điều lầm lớn vậy ». (Luận-ngữ: Học-nhi, VII), Một bộ sách mà thánh-nhân đã phải dụng-tâm đến như thế và cho là khó hiểu như thế, tất là có bao nhiêu cái tư-tưởng kỳ-diệu, ta nên biết và đừng lấy làm khinh thường vậy.

Kinh-Thư. — Kinh Thư là bộ sách chép những điển, mô, huấn, cáo, thệ, mạnh, của vua tôi dạy bảo khuyên răn nhau, từ đời vua Nghiêu vua Thuấn cho đến đời Đông-Chu. Sách ấy là một bộ sử rất có giá-trị, khiến cho hậu-thế có thể biết được cái tư-tưởng của cổ-nhân về đạo-lý, chế-độ và phép-tắc từ đời nọ qua đời kia, hiểu được sự tiến-hóa của dân-tộc Tàu cứ từ từ mỗi đời một khác.

Nhưng vì kinh Thư bị nhà Tần đốt mất, đến đời nhà Hán mới có quan bác-sĩ đời nhà Tần là Phục-sinh (có người nói là con gái ông ấy) nhớ thuộc lòng đọc được hai-mươi-chín thiên. Sau ở nuớc Lỗ lại tìm được ở trong vách nhà Khổng-tử một tập hai-mươi-nhăm thiên, viết bằng chữ cổ. Những thiên của Phục-sinh đọc ra, gọi là kim-văn, những thiên tìm được gọi là cổ-văn. Về sau quan bác-sĩ là Khổng An-Quốc, đời Đông-Hán, xếp cả kim-văn lẫn cổ-văn làm thành ra kinh Thư truyền đến ngày nay.

Kinh Thư chia ra làm: Ngu-thư, Hạ-thư, Thương-thư, Chu-thư, cả thảy từ thiên Nghiêu-điển đến thiên Tần-thệ là 59 thiên.

Xem kinh Thư thì biết cái tính chất-phác và lối văn-chương của người đời cổ. Những sự hành-vi và những tư-tưởng chép trong sách ấy đều lấy hai chữ chấp trung 執 中 làm cốt.

Kinh-Thi. — Kinh Thi là bộ sách chép những bài ca, bài dao, từ đời thượng-cổ đến đời vua Bình-vương nhà Chu. Ca là bài hát có điệu có vần, dùng vào lúc tế-tự, hay vào khi có việc hỉ việc hiếu. Dao là lời hát truyền khẩu của dân-gian ở thôn-dã. Xem kinh Thi thì biết những tính-tình, phong-tục và chính-trị các đời và các nước Chư-hầu ở nước Tàu. Như là Mân-phong thì nói cái tục cần-kiệm của người nước Mân, Vệ-phong thì nói cái tục dâm-mỹ của người nước Vệ, Tần-phong thì nói cái sự hối-quá của người nước Tần v. v. Hoặc như Đại-nhã, Tiểu-nhã thì nói việc chính-trị thịnh suy đời nhà Chu

Học kinh Thi có thể di-dưỡng tính-tình và mở rộng sự tri-thức của người ta, cho nên Khổng-tử nói rằng: « Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán. Nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh 詩 可 以 興,可 以 觀,可 以 羣,可 以 怨,邇 之 事 父,遠 之 事 君.多 識 於 鳥 獸 草 木 之 名: Đọc kinh Thi thì khả dĩ cảm-phát chí-ý, khả dĩ xem xét điều hay điều dở, khả dĩ hòa-hợp mà không, lưu-đãng, khả dĩ bày tỏ cái sầu oán mà không giận. Gần trong nhà thì biết cách thờ cha, xa ra ngoài thì biết cách thờ vua, biết nhiều những tên các giống chim muông cây cỏ ». (Luận-ngữ: Dương-Hóa, XVIII). Kinh Thi có nhiều ý-tứ, nhưng khi xem sách ấy phải giữ cái tâm của mình cho chính, thì sự học mới có lợi. Khổng-tử nói rằng: « Thi tam bách nhất ngôn dĩ tế chi, viết: tư vô tà 詩 三 百,一 言 以 蔽 之,曰:思 無 邪: Ba trăm bài trong kinh Thi, lấy một lời mà nói trùm cả là: không nghĩ bậy ». (Luận-ngữ: Vi-chính, II).

Kinh Lễ. — Kinh Lễ là bộ sách chép những lễ-nghi để hàm-dưỡng những tình-cảm tốt, để giữ cái trật-tự cho phân-minh và để tiết-chế các tình-dục. Phàm những tình-cảm của người ta mà không có cái gì để bồi-dưỡng luôn, thì dần dần nó biến đổi đi, hay có thể hóa dở được. Dùng lễ là có ý để gây nuôi lấy những cái tình-cảm tốt. Người ta ở trong xã-hội có những việc quan-hệ đến phong-tục, đến tôn-giáo, nếu không có phép tắc rõ-ràng, thì việc tế-tự. việc hiếu, việc hỉ, cách ăn uống ở làng, ở nước thành ra hồ-đồ hỗn-độn, việc thù-tiếp, cách đối-đãi, thành ra khó xử. Dùng lễ để phân biệt tôn ti, thân sơ, và để giải-quyết những sự hiềm-nghi. Người ở đời ai cũng có lòng tư-dục, nếu không có qui-củ để phòng giữ trước, thì thường nó hay khiến người ta làm những điều bất nhân phi nghĩa. Dùng lễ là để tài-chế sự hành-vi cho hợp lẽ phải. Lễ quan-trọng như thế, cho nên Nho-giáo rất chuộng lễ, cho là: « Phàm nhân chi sở dĩ vi nhân giả, lễ nghĩa giã 凡 人 之 所 以 爲 人 者,禮 義 也: Phàm người mà thật có cái phẩm-giá con người là có lễ nghĩa vậy. »

Học lễ thì cần phải hiểu chữ: Vô bất kính « 無 不 敬: Không có điều gì là không kính. » Đối với mình cũng như đối với người, bao giờ cũng phải lấy sự kính làm chủ. Không có kính thì bao nhiêu lễ thành ra hư-văn vô-ích.

Kinh Lễ hiện nay có 25 quyển, chia ra làm 49 thiên, phần nhiều là văn của Hán-nho phụ-họa vào, chứ chính-văn đời Xuân-thu thì không còn được mấy.

Trong kinh Lễ có thiên Lễ-vận, Hán-nho cho là Tử-Du hoặc là môn-đệ của Tử-Du làm ra. Ở đầu thiên ấy nói cái nghĩa đại-đồng và tiểu-khang như sau này:

« Ngày xưa đức Trọng-Ni được dự lễ tế chạp. Tế xong Ngài ra đứng chơi ở trên cửa đền, ngậm-ngùi mà thở dài. Ngài thở dài là thở dài về việc vua nước Lỗ cúng tế không đủ lễ. Ngôn-Yển (Tử-Du) đứng bên cạnh hỏi rằng: Phu-tử thở dài về việc gì? — Khổng-tử nói rằng: Thực hành cái đại đạo, cùng những kẻ anh-tuấn đời Tam-đại, thì Khâu này không kịp, nhưng vẫn có chí làm những việc như thế.

« Thực hành cái đại đạo, thì thiên-hạ là chung cả, kén chọn kẻ hiền kẻ năng, giảng điều tín, sửa điều hòa thuận. Cho nên người ta không riêng thân cha mẹ mình, không riêng yêu con mình, khiến kẻ già có chỗ nuôi-nấng trọn đời, kẻ trẻ mạnh có chỗ dùng, đứa trẻ tuổi có chỗ trưởng thành, thương kẻ hóa chồng, đứa con không có cha mẹ và người già không có con cái, người tàn tật có chỗ nuôi, con trai có chức phận, con gái có chồng con tử-tế, của cải không bỏ phí ở đất, mà bất tất phải tàng-tích ở mình, cái sức lực phải ở thân mình ra, mà bất tất phải lấy làm riêng của mình. Ấy cho nên cái cơ mưu phải bế tắc, kẻ trộm cắp, người làm loạn, làm giặc, không nổi lên, vậy nên ngoài cửa không đóng. Ấy thế là đời đại-đồng 大 同.

« Nay đại đạo đã bỏ, lấy thiên-hạ làm của riêng nhà mình, ai nấy đều riêng thân cha mẹ mình, đều riêng yêu con mình, của cải và sức lực làm riêng của mình, vua quan thì lấy việc cha truyền con nối làm lễ, lấy thành quách hào trì làm kiên cố, lấy lễ nghĩa làm kỷ cương, chính cái nghĩa vua tôi, hậu cái tình cha con, thuận cái tình anh em, hòa cái đạo vợ chồng, đặt chế độ, lập điền lý, tôn trọng kẻ trí dũng, lập công khởi sự riêng cho mình. Cho nên sự dùng mưu-chước mới sinh ra mà việc chiến-tranh bỏi đó khởi lên vậy. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ, Thành-vương, Chu-công bởi đó mà được chọn là bậc hơn cả. Sáu bậc quân-tử ấy chưa tầng không cẩn-thận ở lễ vậy. Lễ là để làm cho rõ cái nghĩa, thành điều tín, rõ người có lỗi, lấy nhân làm phép, giảng điều tốn-nhượng, bảo dân theo phép thường. Như có ai không theo những điều ấy, thì dẫu có thế vị, chúng nhân cho là họa ác, bắt tội mà truất bỏ đi. Ấy thế là đời tiểu-khang 小 康 ».

Hậu nho cho đoạn nói về đời tiểu-khang có nhiều chỗ chép sai, văn lý không thông và muốn sửa lại, đem câu « cho nên sự dùng mưu-chước mới sinh ra, mà việc chiến-tranh bởi đó khởi lên vậy » lên trên câu « vua quan thì lấy việc cha truyền con nối làm lễ », và dưới câu « của-cải và sức lực làm riêng của mình ». Lại so với sách Khổng-tử gia-ngữ, thì có nhiều chỗ khác hẳn. Đại-để theo lời các nhà bàn và sách Khổng-tử gia-ngữ, thì đoạn ấy như thế này: «... của-cải và sức lực làm riêng của mình, cho nên sự dùng mưu chước mới sinh ra mà việc chiến-tranh bỏi đó khởi lên vậy. Vua quan thì lấy việc cha truyền con nối làm lễ, lấy thành quách hào trì làm kiên cố. Vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ, Thành-vương, Chu-công bởi đó mà được chọn là bậc hơn cả. Sáu bậc quân-tử ấy chưa tầng không cẩn-thận ở lễ vậy. Lễ hưng khởi lên là ngang với trời đất. Nếu ai không theo lễ mà ở ngôi, thì người ta cho là họa ác ». Sửa lại như thế thì đúng với văn trong sách Khổng-tử gia-ngữ, văn lý thông hơn và ý nghĩa sáng rõ lắm, nhưng lại không có hai chữ tiểu-khang đối với hai chữ đại-đồng ở đoạn trên.

Vả chăng Khổng-tử dẫu có nói những điều ấy, thì cũng chỉ cốt nói sự phải dùng lễ mà thôi, chứ không có ý phân ra đại-đồng và tiểu-khang, để trọng Ngũ đế mà khinh Tam vương. Điều ấy rất rõ ở đoạn đầu. Ngài cho lễ là phải tùy thời mà biến đổi, mỗi đời phải dùng một khác, để cho hợp với cái lẽ biến hóa của trời đất. Chư nho hiểu rõ cái nghĩa ấy, cho nên mới nói rằng đoạn ấy là của những người đời sau nhiễm cái học của Lão Trang cho là cái đạo mất mới có nhân nghĩa v. v. rồi bịa đặt ra, hoặc sửa đổi lại như thế, chứ không phải là lời của Khổng-tử.

Cận kim, bọn nho-giả là Khang Hữu-Vi và Lương Khải-Siêu công nhận đại-đồng là cái học vi ngôn và tiểu-khang là cái học đại nghĩa của Khổng-tử. Song xét ra thì có lẽ bọn Khang, Lương bị cái ảnh-hưởng của tân trào, mới đem những ý ấy mà nói cái chính-thể cộng-hòa và quân-chủ. Kỳ thực không đúng cái tôn-chỉ của Khổng-học. Cái tôn-chỉ ấy cho là mỗi thời nhân trí biến thiên đi một khác, thì việc trị cũng phải tùy thời mà thay đổi, miễn là giữ được lễ nghĩa làm gốc để cho hợp đạo trung. Vậy thì cái thuyết đại-đồng và tiểu-khang của Khang, Lương tưởng không đúng với cái tinh-thần Khổng-giáo. Bởi thế cho nên khi xét cái chính-trị của Khổng-tử, sách này không nói đến cái thuyết ấy.

Kinh Xuân-thu• — Kinh Xuân-thu là bộ sách của Khổng-tử làm ra. Ngài theo lối văn làm sử mà chép truyện nước Lỗ, kể từ Lỗ Ẩn-công đến Lỗ Ai-công. Trong sách ấy chép cả việc nhà Chu và việc các nước Chư-hầu.

Xem cái hình-thể bề ngoài thì là một bộ sử biên-niên, lời lẽ vắn-tắt, lắm cho hình như không có ý-nghĩa gì cả, nhưng xét rõ đến cái tinh-thần, thì thật là bộ sách triết-lý về việc chính-trị. Mạnh-tử là người đã hiểu rõ nghĩa kinh Xuân-thu, nói rằng: «Thi vong nhiên hậu Xuân-thu tác. Kỳ sự tắc Tề Hoàn, Tấn Văn, kỳ văn tắc sử. Khổng-tử viết: Kỳ nghĩa tắc Khâu thiết thủ chi hỹ 詩 亡 然 後 春 秋 作.其 事 則 齊 桓,晉 文,其 文 則 史.孔 子 曰:其 義 則 丘 竊 取 之 矣: Kinh Thi hết, nhiên hậu kinh Xuân-thu mới làm ra. Việc ở trong sách Xuân-thu là việc Hoàn-công nước Tề, Văn-công nước Tấn, văn trong sách ấy là văn sử. Nghĩa thì Khổng-tử nói rằng: Khâu này trộm lấy đó vậy ». (Mạnh-tử: Ly-Lâu hạ). Nghĩa là Ngài lấy truyện ở trong các sách nước Tấn, nước Sở, nước Lỗ, mà biểu-thị cái ý nghĩa của Ngài muốn bày tỏ ra. Thời Xuân-thu bấy giờ xã-hội Tàu loạn-lạc, vua các nước Chư-hầu làm nhiều điều bạo-ngược và ai cũng muốn lấn quyền của thiên-tử nhà Chu. Ngài không muốn để sự phê-bình phán-đoán của Ngài động chạm đến những người quyền-thế đương thời, vả lại cái học sâu xa của Ngài thường là cái học tâm-truyền, cho nên Ngài mượn lối văn làm sử, nói việc đã qua, để ngụ cái vi ý của Ngài.

Sách Trang-tử cũng nói ở thiên Thiên-hạ rằng: Xuân-thu dĩ đạo danh phận 春 秋 以 道 名 分: Sách Xuân-thu là để nói danh và phận ». Vậy cứ theo những ý-kiến của những nhà đại hiền-triết đời Chiến-quốc, thì sách Xuân-thu thật là sách để tâm-truyền cái đại-nghĩa danh và phận về đường luân-lý và chính-trị, chứ không phải là sách chép sử như người thường vẫn hiểu lầm.

Sách Xuân-thu có ba chủ-nghĩa là: Chính danh tự, định danh phận, ngụ bao biếm. Chủ ý của Khổng-tử là tôn vua nhà Chu. Dẫu đời bấy giờ các nước Chư-hầu có nhiều người không biết đến vua nhà Chu nữa, nhưng Ngài chép ngay đầu sách là: « Xuân vương chính nguyệt 春 王 正 月: Mùa xuân tháng giêng vua nhà Chu »:[2], để tỏ cái ý vẫn nhận nhà Chu làm chủ cả thiên-hạ. Lệ nước Tàu lấy lịch số làm quan-trọng, cho là cái biểu-hiệu sự chịu mệnh-trời của nhà làm vua, cho nên về sau cứ hằng năm nhà vua ban lịch ra, để tỏ cái quyền chính-thống thuộc về mình.

Xem kinh Xuân-thu thì phải biết ý nghĩa và vị-trí từng chữ. Mỗi chữ là để định rõ người tà người chính, như Thiên-tử chết thì chép chữ băng 崩, vua Chư-hầu chết thì chép chữ hoăng 薨, ông vua đã cướp ngôi, làm sự tiếm-thiết mà chết, thì chép chữ tồ 殂, người làm quan ngay chính chết, thì chép chữ tốt 卒, người làm quan gian nịnh chết, thì chép chữ tử 死.

Người nào có danh phận chính-đáng thì chép rõ chức phẩm và tên tự; người nào mà danh phận không chính-đáng, thì dẫu có chức phẩm gì, cũng chỉ chép có một tên tục mà thôi.

Sự khen chê của Ngài cốt ở những chữ Ngài dùng. Có khi chỉ vì có một chữ chê mà thành ra tiếng xấu muôn đời, một chữ khen mà được tiếng thơm thiên cổ. Bởi vậy người đời sau bàn kinh Xuân-thu, nói rằng: « Nhất tự chi bao, vinh ư hoa cổn, nhất tự chi biếm, nhục ư phủ việt 一 字 之 褒,榮 於 華 袞,一 字 之 貶,辱 於 斧 鉞: Một chữ khen, thì vinh hơn cái áo cổn hoa của vua ban cho, một chữ chê thì nhuc hơn phải tội rìu búa ».

Vì Khổng-tử thấy đời suy, đạo mờ, các tà-thuyết dấy lên, những sự hung-bạo rất nhiều, con giết cha, tôi giết vua, cho nên Ngài lấy làm lo sợ mà làm ra bộ Xuân-thu, để định cái chính-thể, chủ ở sự chính danh, định phận, cho hợp đạo-lý và cho rõ sự thưởng phạt.

Sách Xuân-thu là sách định chế-độ của quân-chủ. Khổng-tử biết rằng trong một nước không thể không có cái quyền quân-chủ, song Ngài lại sợ rằng những người giữ quyền quân-chủ thường hay lạm dụng thế lực của mình mà làm những điều tàn bạo. Vậy nên Ngài mới đem cái nghĩa lấy cái nguyên 元 của dương khí mà thống trị việc Trời, lấy Trời mà thống trị các vua chúa, và bày tỏ ra một cách đặc-biệt ở sách Xuân-thu để hạn-chế cái quyền của nhân quân. Nhưng vì những người làm vua làm chúa đã dễ mấy người hiểu được rõ cái lẽ thâm-viễn siêu-việt ấy, cho nên Ngài mới lấy những điều tai dị nhu nhật-thực, nguyệt-thực, hay là sao chổi và sự động đất v. v. là những điều hiển-nhiên ai cũng có thể trông thấy được, để cảnh-giới những bậc nhân quân. Ngài muốn những bậc ấy phải lấy những điềm lạ ấy làm kính sợ, mà tự mình tu tỉnh lại và làm những điều nhân nghĩa. Đó là cái vi ý trong sách Xuân-thu, Khổng-tử còn sợ người ta không hiểu rõ cái ý ấy, cho nên ngài nói rằng: « Tri ngã giả kỳ duy Xuân-thu hồ, tội ngã giả kỳ duy Xuân-thu hồ 知 我 者 其 惟 春 秋 乎,罪 我 者 其 惟 春 秋 乎: Người biết ta là cũng chỉ ở kinh Xuân-thu, người trách tội ta là cũng chỉ ở kinh Xuân-thu ». (Mạnh-tử: Đằng Văn-công hạ). Biết Ngài là biết cái bụng của Ngài sợ những tà-thuyết, những bạo-hạnh càng ngày càng nhiều ra, cho nên Ngài bày tỏ cái phương-pháp chính-trị để đổi loạn ra trị, và để trừng-trị kẻ tàn-bạo, gian-ác. Trách tội Ngài là vì không hiểu cái ý của Ngài mà cho là Ngài tiếm làm việc của Thiên-tử, hoặc là ngờ Ngài dùng những điều tai dị để làm mê hoặc người đời. Học-giả nên chú ý mà hiểu cái thâm ý và cái khổ tâm của Ngài trong sách Xuân-thu. Về sau Hán nho thường không hiểu rõ cái phần uyên-thâm ấy, chú trọng ở cái thuyết âm dương, ngũ hành, gây thành mối mê tín, thật là sai cái nghĩa trong sách Xuân-thu vậy.

Người thường không biết, lấy con mắt xem sử mà xem, thì không hiểu bộ sách ấy ích lợi về điều gì. Song người nào biết, lấy cái tinh-thần mà lĩnh-hội cái thâm ý trong sách ấy, thì thấy có nhiều ý-nghĩa rất sâu-xa. Bởi thế cho nên các nhà danh nho xưa nay vẫn kính chuộng bộ sách ấy. Về sau cái chính-thể quân-chủ của các nước ở Á-đông này đều có hấp-thụ ít nhiều cái tinh-thần ở trong bộ sách ấy. Những nhà làm sử cũng hay theo lối biên-niên trong kinh Xuân-thu mà chép sử, nghĩa là cứ theo từng năm mà chép các việc.

  1. Trong chính-văn viết là: 加 我 數 年,五 十 以 學 易… Nhưng xét ra khi Ngài về nước Lỗ, định lại kinh Dịch, thì Ngài đã gần 70 tuổi, vậy chữ ngũ-thập 五 十 ở đây không có nghĩa. Chắc là chữ tốt 卒 người ta chép lầm ra chữ ngũ thập 五 十. Các bản đều chú-thích như thế cả.
  2. Nguyên lịch bên Tàu đời trước vẫn không nhất-định. Nhà Hạ lấy tháng dần là tháng giêng làm đầu năm, nhà Thương lấy tháng sửu là tháng chạp làm đầu năm, nhà Chu lấy tháng tí là tháng mười-một làm đầu năm, nhà Tần lấy tháng hợi là tháng mười làm đầu năm. Đến đời vua Vũ-đế nhà Hán mới theo lịch nhà Hạ lấy tháng dần làm đầu năm. Từ đó đến nay vẫn theo lịch nhà Hạ.