Nghị quyết số 73 NQ/TVQH (1976)

Xem tác phẩm có tựa đề tương tự tại Nghị quyết số 73 NQ/TVQH.
Nghị quyết số 73 NQ/TVQH về việc cử đại diện miền Bắc tham gia Hội đồng bầu cử Quốc hội khóa VI  (1976) 
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

Nghị quyết được ban hành ngày 12 tháng 1 năm 1976.

Căn cứ vào các văn kiện của Hội nghị Hiệp thương chính trị đã được Quốc hội khóa V, kỳ họp thứ 2 phê chuẩn,

QUYẾT NGHỊ:

Cử 11 vị sau đây đại diện cho miền Bắc, tham gia Hội đồng bầu cử toàn quốc để phụ trách việc bầu cử đại biểu Quốc hội chung của cả nước:

1. Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

2. Hoàng Văn Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

3. Xuân Thủy, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

4. Nguyễn Xiển, Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

5. Trần Đăng Khoa, Phó Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

6. Thượng tướng Chu Văn Tấn, Phó Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

7. Trần Đình Tri, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà;

8. Nguyễn Thị Minh Nhã, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;

9. Linh mục Võ Thành Trinh, Uỷ viên thường trực Uỷ ban Liên lạc toàn quốc những người công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc yêu hòa bình;

10. Hòa thượng Trần Quảng Dung, Phó hội trưởng Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam;

11. Trương Tấn Phát, Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Thư ký Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, Điều 15, khoản 2, thì "Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó" không phải là đối tượng bảo hộ bản quyền. Còn theo Nghị định số 17/2023/NĐ-CP, Điều 8, khoản 2 của Chính phủ Việt Nam, văn bản hành chính bao gồm "văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân".