Ngự chế mai hoa thi - 御製梅花詩
của Lê Thánh Tông
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

西湖景致小山孤
冰雪精神不夜珠
麗色凝脂甘寂寞
纖腰束帶訝清癯
橋邊怨語撩心切
月下浮香入夢無
多少瓊林春信早
風前錯落玉千株

Tây Hồ cảnh trí tiểu sơn cô,
Băng tuyết tinh thần bất dạ chu.
Lệ sắc ngưng chi cam tịch mịch,
Tiêm yêu thúc đới nhạ thanh cù[1].
Kiều biên oán ngữ[2] liêu tâm thiết,
Nguyệt hạ phù hương[3] nhập mộng vô.
Đa thiểu Quỳnh lâm xuân tín tảo[4],
Phong tiền thác lạc ngọc thiên chu.

Giữa cảnh Tây hồ với ngọn núi chơ vơ,
Hoa mai, với tinh thần trong trắng, như viên ngọc tỏa sáng ban đêm.
Sắc mai đẹp đẽ, da mai mịn màng thế mà lại chịu ở nơi tịch mịch,
Vóc mai mảnh khảnh, thân mai yểu điệu, cứ tưởng là khách tu tiên.
Nghĩ đến lời than phiền bên cầu mà não lòng,
Có mùi hương thoang thoảng dưới ánh trăng mà mơ mơ, màng màng.
Bao nhiêu thứ hoa trong vườn Quỳnh mà riêng hoa mai báo tin sớm nhất,
Hoa nở tứ tung trước gió trông như hàng nghìn cành ngọc.

   




Chú thích

  1. Thanh cù: Chữ "cù tiên" chỉ cây mai, bởi vóc mai gầy, như người tu tiên, thơ Lâm Bô và Lục Du (Trung Quốc) đều nói lưu ý đó, thí dụ thơ Lục Du có câu: "Nhân gian ná hữu thử cù tiên" (Ở đời, ai sánh được với cô tiên gầy ấy?)
  2. Kiều biên oán ngữ: Lời than phiền bên cầu, ý rút từ bài "Vịnh mai" theo điệu từ "Bốc toán tử" của Lục Du, trong đó, nói cây mai bên cầu gãy, trải gió mưa, vẫn tỏa hương thơm ngát, mặc cho trăm hoa ghen ghét
  3. Nguyệt hạ phù hương: Hương thoảng dưới trăng: Ý rút từ bài "Mai hoa" của Lâm Bô, cũng là một bài nổi tiếng mà Nguyễn Trãi cũng nhắc đến
  4. Xuân tín tảo: Hoa mai nở vào tháng 11, nở trước tất cả các loài hoa, nên người đời cho hoa mai là báo tin xuân sớm nhất