CHƯƠNG THỨ V
N• 12.— Nghĩa-vụ làm người

Tằm siêng kéo tơ, ong chăm gầy mật. Mèo lo bắt chuột, gà cần gáy đêm. Chức phận nên làm, vật gì cũng có. Huống người ta đó, nghĩa-vụ rất to. Giời đã phó cho, mình nên gánh vác. Nếu mình lười nhác, ở nể ăn suông. Giá áo túi cơm, biết bao xấu hổ. Đầu đen máu đỏ, ta há thua ai. Phải biết chức giời, nhất là nghĩa-vụ.

NGHĨA-VỤ: việc phải làm, không vì lợi mà làm. GIÁ ÁO TÚI CƠM: người ở dưng ăn nể, thì kể như cái giá vắt áo, cái túi đựng cơm vậy.


N• 13.— Nghĩa-vụ đối với mình

Trong vùng giời đất, rất quí là người. Đã đứng ra đời, lấy thân làm gốc. Tay chân tai mắt, là thân một mình. Xã hội gia-đình, là thân toàn-thể. Muốn cho vẹn vẽ, trước sửa lấy mình. Tâm chính ý thành, vun trồng cội gốc. Lại thêm tài học, đua đuổi đông tây. Nghe nhiều xứng tai, thấy nhiều xứng mắt. Biết nhiều xứng óc, đầy óc chất khôn. Lấp bể dời non, chí bền lòng mạnh. Làm hiền làm thánh, cho xứng thân ta. Bởi thân suy ra, đến nhà đến nước. Nẻ cho hết mực, đo kháp vùng giời. Nghĩa-vụ làm người, lớn lao như thế.


N•14.— Nghĩa-vụ đối với gia-đình

Nhóm muôn ức nhà, mới nên một nước. Gia đình hòa lạc, là nước tiểu khang. Ta phải lo lường, gia đình cho tốt. Dưới thì em út, trên thì ông bà. Giữa thì mẹ cha, với anh với chị. Dựa theo đạo lý, ta hết lòng ta. Hiếu với người già, ơn cùng người trẻ. Hiếu cho phải lẽ, cốt ở tinh thần. Ơn cho có nhân, cốt đường dạy dỗ. Trong nhà khuôn khổ, nên kiệm nên cần. Rộng lối làm ăn, gây nên tự lập. Trong ngoài mọi bực, thằng ở con hầu. Ta phải thương yêu, dắt dìu dạy bảo. Chia cơm sẻ áo, ân ý chu toàn. Chớ lạm quyền trên, chớ kiêu người dưới. Đàn bà con gái, là gốc tề gia. Nhà có phép nhà, càng nên chỉnh đốn, Gia đình mĩ mãn, tiếng lành đồn xa. Chòm xóm lân la, gần đèn thì sáng. Một nhà nhân nhượng, một nước cũng vầy. Nghĩa-vụ ta đây, mới là trọn vẹn.

TIỂU KHANG: kha khá.


N• 15.— Nghĩa-vụ đối với xã-hội

Tứ bề xã-hội, bao bọc mình ta. Từ gần đến xa, một dây vấn vít. Vải nhờ gái dệt, ruộng nhờ giai cày. No ấm tháng ngày, là ơn người đó. Buôn nhờ chợ búa, nghề có thợ thuyền. Ăn tiêu quanh niên, nợ người sao khỏi. Nếu không xã-hội, còn có mình đâu. Ta phải tính sao, cho tròn nghĩa-vụ. Lợi chung với họ, ta phải đắp bồi. Hại chung với người, ta nên cứu chữa. Nhà chung e phá, ta phải giữ gìn. Thuyền chung sợ chìm, ta lo chèo chống. Lợi gì công cọng, ta phải mở mang. Nghiệp gì chung nhau, ta nên gắng gỏi. Ngọn đèn soi tối, máy nước uống chung. Bao nhiêu việc công, ta nên hết sức. Hội thương hội học, hội nông hội công. Việc xã-hội chung, ta nên giùm giúp. Vun trồng cội phúc, quạt thổi gió xuân. Bênh vực quốc-dân, đều là nghĩa-vụ.

CÔNG CỌNG: chung nhau.


N• 16.— Nghĩa-vụ đối với quốc-gia

Góp nghìn muôn nhà, mới gây nên nước. Nước có quyền nước, mới giữ được nhà. Nước tức là nhà, nhà tức là nước. Vậy nên nhà nước, hai chữ liền nhau. Nước là nhà to, nhà là nước nhỏ. Cơ đồ tiên-tổ, thành quách non sông. Xương trắng máu hồng, gầy nên gấm vóc. Con Hồng cháu Lạc, nối nghiệp đời đời. Ruộng ta ta cày, rãy ta ta phở. Nhà ta ta ở, của ta ta ăn. Ta là quốc-dân, nghĩa chung thờ nước. Mất còn sống thác, cùng nước thủy chung. Đất lở giời long, gặp cơn biến cố. Nước không quyền nước, nhà còn được đâu. Kiếp ngựa thân trâu, nghĩ càng đau đớn. Đồng ưu cọng hoạn, ta phải tính sao. Dắt díu đồng bào, giữ gìn nòi giống. Nào người trí dũng, nào kẻ anh tài. Rán sức chống giời, bền gan lấp bể. Sao cho vẹn vẽ, nghĩa-vụ quốc-dân. Ai cũng một phần, chung nhau gánh vác. Nước còn quyền nước, nghĩa-vụ mới xong. Muôn người một lòng, ta nên ghi tạc.

HỒNG LẠC: tiên tổ nước ta. ĐỒNG ƯU CỌNG HOẠN: lo lắng chung nhau.