BÀI TỰA

Các nước ở trên mặt Địa-cầu này, nước nào có phong-tục nước ấy, thì nước nào cũng có thần-hồn nước ấy, ngôn-ngữ tức là thần-hồn trong một nước phát hiện ra ngoài, trông mặt mà bắt hình-dung, người làm sao chiêm-bao làm vậy, cho nên muốn biết thần-hồn trong một nước, thì phải xét phong-tục trong một nước, kẻ giở người hay, không trốn được cái gương chiếu ảnh; muốn biết phong-tục trong một nước, thì phải xét ngôn-ngữ trong một nước, điều hơn nhẽ thiệt, thực đúng như cái ống lưu-thanh.

Nước ta dựng nước đã lâu, khai hoá cũng sớm, mầm Hồng cội Lạc, hơn bốn nghìn năm, con Rồng cháu Tiên, ngoài mười lăm triệu, cũng là một nước văn-hiến xưa nay, nhẽ nào không có thần-hồn trong một nước, để làm gương soi cho đời sau hay sao? Này xem như phương-ngôn tục-ngữ nước ta, không biết truyền lại từ bao giờ, mà nhời-nhẽ vắn-tắt, ý-tứ thâm-trầm, nói ngọt như rót vào tai, nói thẳng như dao chém đất, nói sự thực thì đèn nhà ai rạng nhà ấy, nói thí dụ thì sấm bên đông động bên tây, phong-tục nhân tâm, dân-tình thế cố, nhớn thì hết trên giời dưới bể, nhỏ thì đến kẽ tóc chân răng, bóng-bẩy xa-xôi cũng hình như hương bay gió thoảng, dịu-dàng mềm-mại không kém gì đàn ngọt hát hay; nhời nói là đọi máu, khi xưa ai khéo đặt điều, nhời nói là gói vàng, đến nay hãi còn lót miệng; nói có sách mách có chứng, giọng thớ lợ đã trải mùi đời, hay thì khen hèn thì chê, gương phải trái như treo trước mắt, những nhời ông già bà cả để lại, không bỏ được câu nào, trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng hãi còn trơ-trơ, chả phải là thần-hồn nước ta hay sao? ví với cách-ngôn của hiền-chiết đông, tây, tưởng cũng không kém gì cho lắm.

Chỉ hiềm vì nước ta xưa nay, chuyên học chữ Tầu, những cách-ngôn của hiền-chiết bên Tầu, miệng đọc dong-dóc, bụng thuộc lầu-lầu, đến như ngạn-ngữ của nước mình, thì cho là nôm-na mách-qué, rõ thật bụt chùa nhà chẳng cầu, cầu Thính-Ca ngoài đường.

Hiện bây giờ học giới khoáng-chương, văn minh tiến-hoá, chữ quốc-ngữ đã là một lối giản-tiện, thì nhời phương-ngôn cũng đáng làm một môn giáo-khoa. Vậy nay chắp nhặt từng câu, xếp thành tiểu đối, những câu ba chữ, bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bẩy, tám chữ thì ghép từng vần cho dễ đọc, còn những câu dài thì không có vần, chỉ đối đại thế mà thôi, gọi là: NAM-NGẠN-CHÍCH-CẨM, trước là chuyền thuật nhời nói của người trước, sau là làm gương soi cho bực thiếu-niên đời sau, ăn cơm mới nói chuyện cũ, cũng muốn duy-chì quốc-túy một chút, kể ngạn-ngữ thì nhiều và mỗi nơi nói mỗi khác, không ai nhớ hết được. Chúng tôi nhớ được câu nào thì chép câu ấy, có chữ nào nhầm xin các ngài bác nhã chất chính lại cho, thực là hâm bội.

Nay tựa