Nam Phong tạp chí/Quyển I/Số 2/Luận-thuyết/Văn quốc-ngữ

Nam Phong tạp chí, Quyển I, số 2  (1917)  của Phạm Quỳnh
Văn quốc-ngữ

VĂN QUỐC-NGỮ

Cái vấn-đề quan-trọng nhất trong nước ta ngày nay là cái vấn-đề về văn quốc-ngữ. Cái vấn-đề ấy có giải quyết được thì sự học mới có thể tấn-tới, dân-trí mới có thể mở-mang, cuộc tiến-hóa sau này mới có thể mong-mỏi được. Đến ngày chữ quốc-ngữ dùng làm quốc-văn được thì người nước Nam mới có thể thâu-nhặt các khoa-học mới mà gây thành một nền học thích-hợp với trình-độ, với tính-cách dân ta. Đến ngày ấy thì người nước ta mới phát-biểu được cái nhân-cách của mình, cái nhân-cách ấy hiện nay còn mập-mờ phảng-phất như ảnh không hình vậy. Nói rút lại, văn quốc-ngữ có phát-đạt thì nền quốc-học mới gây dựng được, mối tư-tưởng mới mở-mang được, quốc-dân mới không đến nỗi chung-kiếp đi học mướn viết nhờ như từ xưa đến nay vậy.

Trách lịch-sử cũng không có bổ-ích gì, mà làm án ông cha lại là phạm tội bất-hiếu. Vậy ta chẳng nên oán gì các cụ ta ngày xưa vì say đắm chữ tầu nên nhãng-bỏ tiếng nôm, để cho con cháu ngày nay khổ vì có nước mà không có văn, có người mà không có cách nói cho nhau nghe ngoài những sự nhật-dụng tầm-thường. Ta chỉ nên xét cái hiện-tình mà khuyên quốc-dân chú-ý vào một cái vấn-đề rất là quan-trọng cho cuộc tương-lai nước nhà.

Hiện nay ai cũng rõ rằng chữ quốc-ngữ là tiện-lợi, so với chữ tây chữ nho học vừa dễ mà nhanh, nhưng cũng vì thế mà coi thường, cho là không đáng công học, không biết rằng cái chữ quốc-ngữ ấy thực là cái bè lau để cứu-vớt bọn ta trong bể trầm-luân vậy.

Ôi! có nước mà không có tiếng nói còn gì khổ bằng ! Trong khi họp-tập, năm ba anh em ngồi với nhau, bàn những sự thiết-yếu kể những điều tâm-sự, mà đương câu truyện phải pha một hồi phải pha một hồi tiếng tây hay điểm mấy câu chữ tầu, thì cực biết bao nhiêu ! Viết một bức thư là sẻ tấm lóng cho người yêu kẻ mến, nhời đi cái cảm tình cũng phải đi theo, thế mà diễn cái cảm-tình ấy cũng không thể dùng được cái tiếng nói bắt đầu học từ khi lọt lòng mẹ thì thảm biết chừng nào !

Ấy cái hiện-tình như thế. Phàm những người có chí ai là người đoái nghĩ đến ?

Những người nhiệt-thành về tây-học thì ước cho chữ tây thông-dụng cả trong nước, lấy tiếng tây mà thay vào tiếng ta không những là trong khi học-hành mà đến cả trong khi truyện-trò bàn-bạc nữa, không biết rằng sự « đổi-óc » ấy là thuộc về nhẽ thiên-nhiên không bao giờ thành được. Dù có thể thành được nữa cũng lại là một sự không nên ước lắm. Vì chữ Pháp phải coi là một thứ « cao-đảng văn-tự », người nào có tư-cách nên nghiên-cứu cho thực thâm để làm cái thang mà bước lên cõi văn-minh, nền học-thuật mới, nhưng cái của báu ấy không nên đem ban-phát cho khắp mọi người, sợ không biết của, dùng nhầm mà làm mất giá đi vậy. Cứ xem người nước ta theo tây-học đã ngoại bốn mươi năm nay mà chưa thấy gì là tấn-tới cho lắm, cũng là bởi sự học trọng phổ-thông mà không chuộng nghiên-cứu, nên tuy có rộng mà không được sâu. Như thế thì thà rằng ít người học mà học cho kỹ còn hơn là nhiều người học mà học không đến nơi vậy.

Đến những nhà cựu-học thì tuy ngày nay không còn mấy nữa, nhưng còn người nào đều là giữ cái « yếm-thế chủ-nghĩa » cả. Trông thấy cái học cũ mỗi ngày một mòn mõi đi, không thể cứu vớt được nữa, trong lòng những thương cùng nhớ, không hề xét đến tình-thế tất-nhiên, không hề nghĩ đến tiền-đồ sự học, tựa-hồ như quay mặt cả về cái ký-vãng mà ngoảnh-lưng lại cái tương-lai vậy. Nói văn quốc-ngữ với những bọn ấy thì cũng lấy làm vô-vị như là nói văn nho với người tây học vậy.

Như thế thì cả quốc-dân không hề lưu-tâm đến cái vấn-đề tâm-huyết, là cái vấn-đề chữ quốc-ngữ ; cả quốc-dân không hề tự hỏi : Một nước có thể không có quốc-văn được không ? Một nước muốn sự sinh-tồn, tìm đường phát-đạt, có thể đời đời học mướn viết nhờ mãi được không ?

Đời trước đã nhầm, đời nay phải biết tránh vết xe cũ mà đừng đi. Ví nước Nam xưa kia có được vài ba ông Nguyễn-Du, răm bẩy bà Thị-Điểm, mấy cụ Bảng Đôn, mấy cụ Yên-đổ thì chi mà quốc-văn chẳng đã phong-phú rồi, chi mà đến nỗi nghèo nàn như ngày nay !

Các cụ đã nhãng bỏ, bọn ta phải chăm-chút. Dám quyết rằng công-phu này không phải là công-phu uổng. Cái chất nôm tuy còn mộc-mạc, như súc gỗ chưa thành đồ, nhưng nếu khéo đẽo khéo trạm thì có ngày trắc gụ cũng nên.

Vẫn biết rằng văn quốc-ngữ ngày nay chưa có cái thú-vị gì khá lấy làm vui được cho những bực cao-sĩ. Ngồi hầu truyện các nhà văn-nhân thi-sĩ nước Tầu nước Tây vẫn còn sướng hơn là để tai nghe những tiếng bi-be của đứa lên ba đất Nam-Việt. Nhưng mà kính-trọng bực tôn-trưởng bao nhiêu tưởng cũng nên phủ-dục cho đứa anh-hài bấy nhiêu mới là phải. Huống chi đứa anh-hài lại là sản-nhi giống Hồng-Lạc, thì cái công phủ-dục ấy lại chẳng nên tăng lên bội-phần dư ?

Bởi vậy mà ngày nay người nào chịu tập văn nôm là làm một việc công-đức, người nào chịu xem văn nôm là làm một việc đại-nghĩa vậy. Cái công-đức ấy, cái đại-nghĩa ấy, những người có tài có trí trong nước ta há lại không nên tận-tâm mà làm dư ?

Nào các nhà tây-học, sau khi các ông đọc xong một truyện hay, lại chẳng nên tự nghĩ rằng : cái truyện này ta thử thuật lại ra tiếng ta cho vợ ta em ta nghe xem năm phần có được một phần không ; đương khi các ông gặp được một cái tư-tưởng lạ, lại chảng nên tự hỏi rằng : cái tư-tưởng này, ta thử đem diễn ra nhời nôm, xem mười phần có được một phần không, cái nghĩa-lý của nó kèm đi bao nhiêu, cái sâu-sắc của nó giảm mất chừng nào. Ông tự nghĩ tự hỏi thế rồi, ông thử cầm bút viết, lần đầu tất còn chưa được thanh-thoát lắm, lần thứ nhì, đến lần thứ ba thì có nhẽ năm phần đã đến được ba mà mười phần đã tới đến bẩy rồi. Thế là đội văn nôm được thêm một xuất tinh-binh, mà thiện-nghiệp của ông được tăng một công-đức mới vậy ! Việc đó tưởng cũng không khó-khăn gì, miễn là có chút hảo-tâm là đủ. Vả các ông cũng có thể tự chắc rằng có công tất có quả, vì một cái tiếng đã dfung để giãi được tính-tình tâm-sự một cô Kiều không phải là tiếng man-mọi gì mà không thể thành văn được.

Lại các nhà nho-học, trong khi các ông bình một đoạn văn hay, nhời gióng-giả như bài biểu ông Trư-Cát, giọng dịp-dàng như bài tựa ông Vương-Bột, khí mát mẻ như bài phú ông Dông-Ba, tình cảm-động như bài văn ông Hàn-Dũ, lại chẳng nên tự hứa trong bụng rằng : ta sẽ cố luyện cho tiếng nôm ta cũng có cái thể-cách nghiêm-trang như nhời văn chữ, để gây lấy một lối từ-chương cho người mình, sau này cũng có thể làm tựa, làm ký, làm chướng đối được như người Tầu. Nếu cái văn-chương mới ấy mà gây-dựng lên được thì cái công-đức của các ông cũng không phải là nhỏ vậy.

Nhờ cả các bực cựu-học tân-học trong nước vun giồng cho thì cái mầm quốc-văn mấy nỗi mà mọc thành cây, sinh hoa kết quả, thêm tốt đẹp cho cái vườn cũ đất Việt-Nam này. Nhà tây-học thì phỏng cái lối thuyết-lý tả-thực của Âu-châu mà vụ cho nhời nôm được rõ-ràng thiết-thực, trọng phép trực-tiếp hơn phép gián-tiếp. Nhà nho-học thì theo cái lối từ-chương biền-ngẫu của văn Tầu mà luyện cho nhời nôm được chải-chuốt nghiêm-trang, dùng phép gián-tiếp hơn phép trực-tiếp. Hai lối điều-hòa với nhau thì quốc-văn cũng được đủ tư-cách mà ra ứng-đối trong trường ngôn-luận, kết-cấu trong cõi văn-chương.

Song các nhà làm văn gắng-sức đã đành, các nhà đọc văn cũng phải chịu khó mới được. Nói thế tất có người lấy làm lạ mà nghĩ rằng : Người ta xem sách cốt lấy vui. Nếu xem sách cũng phải khó nhọc thì ai còn xem làm gì ? — Cái đó đã cố-nhiên rồi, nhưng phải xét đến cái tình-thế riêng của văn quốc-ngữ mới được. Cổ-thi La-mã có câu : « Mày là đứa con sinh ra không có mẹ ! » Văn quốc-ngữ ta ngày nay cũng là một đứa con sinh ra không có mẹ vậy. Trước ta không ai làm văn bằng nôm, ta không thể lấy người trước làm chuẩn, làm mẫu được. Ta phải nhất-thiết sáng-tạo dựng đặt ra cả, từ chữ dùng cho đến phép đặt câu. Việc đó không phải là một việc dễ : ai đã từng làm văn quốc-ngữ, vụ cho nhời nôm đạt được hết cái tư-tưởng của mình, mới biết cái gian-nan vậy. Người đọc thường không lượng cái khổ-tâm của người làm mà quá trách-bị ở văn quốc-ngữ, muốn cho văn quốc-ngữ xem cũng vui cũng thú bằng văn tầu văn tây, không biết rằng trẻ lên ba đã khôn sao bằng người đầu bạc được ! Nhưng có nuôi thì có nhớn, rồi cũng có ngày trưởng-thành. Cốt là đương buổi ấu-trĩ này phải có người chăm-chút, phải có người trông nom, phải có người rèn-tập mà cũng phải có người tưởng-lệ, thì mới ra khỏi tuần măng-sữa mà bước lên bực tiến-thành được. Ấy văn quốc-ngữ ngày nay cũng tức như đồ Bát-tràn Phù-lãng ngày xưa vậy. Ai đã từng vào xem nhà Cổ-vật-quán của trường Bác-cổ ở Hà-nội thì tất trông thấy ở gian bầy đồ cổ An-nam có mấy bộ tam-sự, ngũ-sự, đỉnh, lọ bằng xành từ đời Cảnh-hưng Vĩnh-thịnh, hình cổ-kính mà trang-nghiêm, chất bóng-bẩy mà chải-chuốt, nước men nét bút cũng chẳng kém gì xứ tầu. Cớ sao mà cái kỹ-nghệ quí-báu của ông cha ấy, ngày nay ngoài mấy bộ của trường Bác-cổ, không còn di-tích nữa ? Cớ sao mà chính người nơi thổ-sản giắt đến xem lấy làm kinh-ngạc mà không dám nhận ? Chảng phải là nước ta xưa nay đã quá dùng đồ xứ tầu đã giết mất đồ xành ta dư ?

Ai ôi, quốc-nghệ xưa kia đã thế, quốc-văn sau này thế nào ?

Xin đồng-bào ta chớ nhãng-bỏ, chớ khinh-rẻ văn quốc-ngữ. Cái tương-lai ta ở đó.

Phạm Quỳnh