Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Bà Rịa
Bà-Rịa
Bà-Rịa phong cảnh thi:
Bà-rịa nguyên là phủ Phước-tuy.
Địa đầu giáp giái với Cù-mi,
Dinh sanh mé biễn người không ít.
Thổ sảng trên rừng vật thiếu chi,
Cầu bến Cỏ-may đường lộng lộng.
Nui am Bà-vải đá tri tri,
Khá khen phong tục không dời đổi,
Trong xóm làng còn gốc lể nghi.
Bà-rịa nguyên phủ Phước-tuy, Riêng ra một hạt từ khi tàn triều.
Ruộng mặn rộng ngọt cũng nhiều, Lợi rừng lợi biễn ngư tiều xuê xang.
Mấu gai cây ván bộn bàn, Đậu nành đậu phụng mía đàng bắp khoai.
Thuốc bắc rất nhiều vị dai, Thiên-môn, hậu-phát, nhung-nai, sâm-rừng.
Lại thêm các thú có sừng, Linh-dương, tê giác, với sừng con Dinh.
Tô-mộc, bán-hạ, nam-tinh, Chỉ-xác, ý-dỉ, huỳnh-tinh, phục-thần.
Bốn tổng phong tục kiệm cần, Còn ba tổng Mọi đều dân cuốc cày.
Làng Phước-liểu cảnh đẹp thay, Gốc xưa Bà-rịa dựng gầy tư cơ.
Mở mang rộng đất cỏi bờ, Công Bà khai sáng đến giờ kỉ cang.
Thuở Cao-hoàng-đế lánh nàn, Bà đem lương phạn chiến tràng hiến công.
Ruộng bà để lại minh mông, Tại thôn Phước-liểu ngoài trong cả làng.
Thường niên huê lợi bỉ bàn, Người đều thọ hưởng trăm ngàn đến nay.
Nhớ xưa phước đức nặng dày, Viên quan hương chức riêng xây miểu toà.
Nội làng lớn nhỏ trẻ già, No thân ấm cật ơn bà lưu lai.
Lửa hương quyết thựt lâu dài, Đình chùa xứ ấy ai ai cũng thờ.
Vửng bền nghĩa chỉ nhơn cơ, Xứ kêu Bà-rịa thuở giờ thành danh,
Hiển vinh quá nổi hiển vinh, Không con có lộc để dành vỉnh vi.
Khắp xem cát cảnh từ bi, Châu-viên thứ nhứt sơn kỳ thủy thanh.
Núi Dại-bà, chổ rất linh, Am ông Bắc-đẩu tu hành kinh niên,
Cám người có chí nhọc siêng, Hòa-thượng Đồng-đề đức hiền siêu-thăng.
Nay còn môn đệ chư tăng, Tại Phước-tuy phủ bổn căn noi dùng.
Chợ thành buôn bán thạnh sung, Hai bên phố xá người đông chậc đầy.
Long-điền làng tiếng thuở nay, Các nơi chùa miễu sữa xây nghiêm tề.
Dân cư trù mật tư bề, Sanh phương nghệ nghiệp phủ phê trong ngoài.
Nhà hội bền chắc lâu dài, Tôn ty đẳng cấp chẳng sai lệ làng.
Trên hòa dưới thuận nghiêm trang, Sum vầy hương chức bĩ bàn quan viên.
Người xưa già cả đức hiền, Là ông Cỗ-Đến sóm riềng chuộng yêu.
Làm Hiệp-quãn thuở cựu triều, Vợ chồng tích thiện mơi chiều lắm khi.
Đã đều về chốn âm ty, Dấu roi phước đức gốc vì song thân.
Con là thầy Cai-tỗng Cần, Làm tôi Nhà-nước xã dân đẹp tình.
Bởi cha với mẹ hiền lành, Nên con cháu đặng hiển vinh nhãn tiền.
Tốt thay phong-thủy Long-điền, Địa linh nhơn kiệt phát quyền phát quan.
Phát nên phủ huyện chức sang, Phát cai phó-tỗng trong làng trước sau.
Các lân các ấp đều giàu, Hôn nhơn tang tế cùng nhau lể nghi.
Tích xưa còn Dục-tượng-trì, Của hoàng Chơn-lạp tên thì Bô-Tâm.
Tứ bàng đều thảy trúc lăm, Giữa thinh thinh cạng nước cầm một ao.
Nay thời trâu ngựa ra vào, Thãnh thơi dầm tấm ngêu ngao khứ hồi.
Làng Long-thạnh cảnh cũng vui, Hai bên phố chợ cất xuôi hai hàng.
Miễu chùa tu chỉnh kỷ càng, Tục dân cúng quãy cỗ bàn lịch thanh.
Còn roi chữ nghĩa học hành, Phú thi ngâm vịnh sữ kinh tụng truyền.
Thường đêm trổi khúc quãn huyền, Thung dung nho nhã thánh hiền thói dư.
Chưng-tiên chổ núi kheo khư, Có bàn chưng nhỏ bao chừ lưu lai.
Nét in vào đá chẳng sai, Nước vàng đem thết khen ai khéo mần.
Xanh quanh những dấu thai ngân, Di truyền tích lạ tục rằng Chưng-tiên.
Trước sau thay đỗi liền liền, Ni-cô đạo nữ vui miền ẩn thân.
Bà-vãi núi gọi Nữ-tăng, Nguyên xưa có một nàng rằng họ Lê.
Thờ chồng dốc trọn một thề, Cạo đầu lên cất am kề đảnh cao.
Tu trì không dạ lảng xao, Sau thành chánh quã ai nào dám khinh.
Núi kêu Bà-vãi thành danh, Ngàn năm để tiếng tú linh cả rừng.
Châu-văn-Tiếp, Nguyễn-phước-Trưng, Hai ông hiễn hít làm thần Hắc-lăng.
Ngàn thu nhựt nguyệt thăng hằng, Dấu còn miễu vỏ bỗn căng nơi làng.
Miễu Nguyễn ngày tế kỉ càng, Hương chức ai nấy hân oan vô hồi.
Thường niên chĩnh đốn tài bồi, Lữa hương sum thạnh một ngôi vững vàng.
Miễu Châu thời bỏ tồi tàng, Xiêu lui ngã tới chẳng màng viếng thăm.
Quạnh hiêu vắn vẻ luôn năm, Nhện giăng trước các rắn nằm bên song.
Tuy không huê lợi vung trồng, Trong làng bao nở đành lòng phui pha.
Chi bằng chung cũa bá gia, Nhờ người thiện niệm may ra có tiền.
Sữa sang thần đặng chổ yên, Cũng là tiếng tốt lưu truyền không quên.
Núi-cố đường đi một bên, Chổ cao vọi vọi bước lên hẹp hòi.
Khô khan huê cỏ xơ còi, Dấu linh bồ liễu để roi đến rày.
Đờn bà thất chí đời nay, Hay lên ở đó lạt chay tu hành.
Cũng là tú khí thiên sanh, Trăm phần ví một Tây-ninh Điện-bà.
Nhơn dân phong thỗ thiệt thà, Nghề đi buôn Mọi vào ra nhọc nhằn
Lãnh dồi kêu tía Hắc-lăng, Chắc dày canh chĩ sánh bằng Kiêm-luông.
Làng Phước-hãi, lưới bạc muôn, Ở theo mé biển tuy buồn mà vui.
Buồn nghe sóng bỗ từ hồi, Vui vì đông đão tới lui chĩnh tề.
Tục kêu là xứ Lưới-rê, Đình chùa lăng miễu tư bề đẹp sung.
Lợi nhờ con cá biễn đông, Cẳng dầm nước mặng đờn ông mốt thường.
Nhiều nhà danh giá cột rường, Nhiều trang viên chức hào cường nội thôn.
Cá chán béo ngon tiếng đồn, Xứ coi quê kịch khéo khôn cũng nhiều.
Nho y đờn địch mỷ miều, Chấp gai quây nhợ dập diều ngày đêm.
Lắm khi trời biễn thuận êm, Lưới trương gặp chỗ đặng thêm thêm tiền.
Địa đầu đặt trạm Thuận-biên, Cấp quân canh giữ giáp miền Cù-mi.
Ngang lên Xuyên-mộc một khi, Có đường giây thép lưởng kỳ giao thông.
Long-kiên, Long-lập, Long-nhun, Cữa nhà chợ búa cũng sung thạnh thường.
Chợ Dinh thiết lập Bố-đường, Châu thành Phước-lễ phố phường mới đông.
Cầu đường sạch sẻ rộng thông, Nay thêm tu bỗ ngoài trong chĩnh tề.
Nhớ quan Chánh-bố Ri-vê (Rivet), Việc công cần cáng tư bề sữa sang.
Bây giờ lại có tòa quan, Lưới-rê Thị-vãi ngã đàng láng trơn.
Quan Đốc-phủ-sứ Nguyễn-Hơn, Đồng tâm hiệp lực ra ơn tài bồi.
Công dinh công sở các ngôi, Thảy đều thanh lịch đứng ngồi vẻn van.
Xe bò thuở trước nghinh ngang, Ngày nay xe ngựa coi càng đẹp xinh.
Cỏ-may mấy dặm thinh thinh, Bến tàu ghé đậu vô Dinh chở hàng.
Viên quan hương chức nội làng, Giữ gìn phép tắc nghiêm trang kĩnh nhường.
Trong làng đạo ngoại hai đường, Nhiều trang thi đậu khoa trường lập thân.
Đỗi đi các hạt xa gần, Đều là có tiếng thanh cần nết na.
Châu-thành xứ chẳng xa ba, Tục quen chấc phát thuận hòa thích trung.
Năm trước có người Vĩnh-long, Tên Nguyễn-hữu-Đức chức sung huỳnh-đường.
Quan trên khen ngợi thường thường, Khen người liêm cáng đã thương lại vì.
Ruỗi đà tiên tịch hồi qui, Anh em tri thức còn khi nhắc hoài.
Nhà thờ Thiên-chúa rộng dài, Kì hoa thoại thảo đình giai vung trồng.
Mấy ông linh-mục lắm công, Với các bà-phước sữa sung mối giềng.
Mổi tuần kinh sách giảng truyền, Cứ theo phép đạo dạy siêng năng thường.
Cách sông có xã Long-hương, Miểu chùa tế tự tỏ tường theo xưa.
Đất dày người ở coi thưa, So bề no đủ củng vừa ăn chung.
Xe bò ghe cữa quá đông, Cả trong toàn hạt sắm dùng theo quê.
Đường rừng xa cách từ bề, Xe bò ổn tiện lúc về lúc đi.
Khỏi sông thời biển bố vi, Nên làm ghe cữa dể khi ba đào.
Trời sanh ra mỗi chổ nào, Đất quê lề thói tiếng nào có không.
Nội thôn hương chức cũng đông,Nhiều ông chất phát nhiều ông nhơn nghì.
Xuân kỳ thu báo mỗi khi, Y quan lể nhạc đều thì nghiêm trang.
Viên quan chức sắc trong làng, Tôn ty đẳng cấp ghế bàn phân minh.
Củng là nhơn kiệt địa linh, Đẹp thay phong thủy núi Dinh rạng ngời.
Trong hương chức có một người, Tên Vỏ-tường-Hiện bốn muơi tuổi ngoài.
Cha đà sớm cách diêm đài, Phụng nuôi từ mẩu không sai bữa nào.
Nhớ ơn sanh dục cù lao, Mẹ ăn con lạy no nao phỉ tình.
Thường thường tụng đào-viên kinh, Dồi mài hiếu nghĩa trung trinh ở đời.
Thảo ngay khuyên chớ đổi dời, Mình nầy khôn lớn bởi người cưu mang.
Nam-kỳ cũng lắm cảnh sang, Duy Bà-rịa hạt rỏ ràng như tiên.
Trời sanh một chổ thiên nhiên, Non xanh nước bích phải miền Bồng-lai.
Nay thêm máy nước riêng ngoài, Dẩn đem nước suối có hoài cả năm.
Tốn hao cũng chẳng bao lăm, Châu thành bá tánh ngàn trăm cậy dùng.