Nam Hải dị nhân liệt truyện/42
42. — Tô-Lịch giang-thần
Khi xưa có người tên là Tô-Lịch, làm quan Lịch ở huyên Long-đỗ, nha ở cạnh con sông nhỏ. Nhà ấy ba đời nhân nhượng ở chung với nhau, được cất lên đỗ khoa Hiếu-liêm, và được tinh hiểu cửa nhà, vì thế ở làng ấy cũng đặt là làng Tô-lịch.
Đến thời vua Mục-tôn nhà Đường, Lý-nguyên-Gia sang làm Đô-hộ, lập dinh phủ ở trong thành Long-biên. Nguyên-Gia thấy cửa bắc thành ấy, có con sông chảy ngược, sơ người ta sinh ra bụng làm phản, muốn cắm phủ chỗ khác, mà đắp ra thành La-thành.
Khi sắp xây thành, lập dinh ở cảnh sông Tô-lịch, rót rượu dâng khấn, xin ông Tô-lịch làm thành-hoàng ở thành ấy.
Đêm nằm mơ thấy thần bảo rằng:
— Sứ-quân sai tôi làm chủ thành này, vì dù tôi dạy dỗ được dân, để cho biết giữ đạo trung hiếu, thì phải lập miếu mà thờ tôi.
Nguyên-Gia xin vâng nhời. Từ đấy dân gian an nghiệp, không ai sinh ra bụng phản nghịch Nguyên-Gia mới đắp ra thành nhỏ để ở, và lập miếu để thờ Tô-lịch.
Khi Nguyên-Gia mới đắp thành có thầy-tướng bảo rằng:
— Tôi xem tướng ông không đắp nổi thành to đâu, sau năm mươi năm nữa, tất có một người họ Cao, đóng đô lập phủ ở đây, mới đắp nổi được.
Đến thời vua Ý-tôn nhà Đường, nước Nam-chiếu làm phản. vua Đường sai Cao-Biền sang đánh, dẹp yên được giặc, mới đặt ra Tĩnh hải-quận, mà phong cho Cao Biền làm Tiết-độ-sứ. Cao-Biền nhân thế giữ phủ Giao-châu, tự xưng là Cao-vương.
Cao-Biền thông hiểu thiên-văn, địa-lý, xem xét hình thế, nhân chỗ thành nhỏ của Nguyên-Gia, đắp rộng thêm ra gọi là Đại-la-thành, chu vi 8.000 bộ.
Mé bắc thành ấy có con sông tự sông Lư (sông cái) vào mé tây-bắc, rồi chảy xuống phía nam, vòng quanh La-thành, rồi lại đổ vào sông Cái. Mỗi năm đến tháng sáu mùa mưa, nước sông tràn lên mông mênh. Có một khi Cao-Biền ngồi thuyền chơi trong sông, bỗng thấy một ông cụ già, đầu bạc phơ phơ, râu mày trắng xóa, hình dung kì dị, đang bơi tắm ở trong sông, cười nói vui vẻ lắm Biền lấy làm lạ, hỏi tên họ, thì nói là họ Tô tên Lịch; hỏi chỗ ở thì nói là ở trong sông. Nói đoạn, vỗ tay cười ầm cả lên, rồi tự nhiên giời đất tối xầm, ông cụ ấy biến mất.
Cao-Biền biết là thần, nhân thế gọi sông ấy là sông Tô-lịch.
Lại một buổi sớm, Cao-Biền đứng ở cửa đông nam La-thành, trông ra sông Tô-lịch, thấy trong sông nổi cơn gió to, sóng đánh bồn cồn, mây kéo mù mịt, rồi có một ngưới dị dạng, đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng; mình mặc áo vàng, đầu đội mũ đỏ, tay cầm một cái hốt vàng, có bóng thấp thoáng như mây phủ, mãi đến lúc mặt giời mọc cao ba trượng mà chưa tan Cao-Biền lấy làm lạ, muốn dùng thuật trấn áp, đêm hôm ấy, chiêm bao thấy ông thần bảo rằng: « Ta là tinh đất Long đỗ, thần linh xứ này, ở đây đã lâu. Nay thấy người đến đây, cho nên ta mừng mà hiện ra, can gì phải trấn áp ta? » Biền tỉnh dạy sợ hãi, lập tức đặt đàn cúng cấp. rồi dùng những vàng bạc đồng sắt làm bùa, cúng ba đêm ngày, rồi mới chôn bùa để yểm.
Đêm hôm ấy mưa gió sấm sét, có tiếng quỉ thần hô hét quát tháo kinh thiên động-địa. Một lát, những bùa vàng, bạc, đồng, sắt, bật cả lên trên mặt đất, tan ra như gio, rồi bay tản vào trong không-khí mất cả.
Cao-Biền lấy làm lạ lắm, than rằng:
— Ở xứ này có thần thiêng như thế ta nên về Tàu, chớ có ở đây mà sinh vạ về sau.
Tự đấy, Cao-Biền có y muốn về, mới tôn thần Tô-lịch làm Đô-phủ thành-hoàng thần-quân.
Đến thời vua Thái-tổ nhà Lý, thiên đô lên thành Thăng-long. Thần Tô-lịch có thác mông vào lạy mừng. Vua lấy làm lạ, hỏi họ tên, thì cũng nói rõ họ tên là thế. Vua lại hỏi rằng: « Thần có giúp cho trẫm giữ mãi cơ nghiệp trăm nghìn năm không »? Thần thưa rằng: « Xin bệ hạ hưởng phúc nghìn muôn năm, thì tôi cũng được hưởng trăm năm hương hỏa ». Vua tỉnh dậy. ngày mai sai xứ đến tế ở đền ấy, tôn làm Đô quốc thành-hoàng đại-vương. Đến thời nhà Trần, lại phong « Bảo quốc định bang đại vương. » Đền thờ ở làng Đông-tác, huyện Thọ-xương. (Bây giờ thuộc về thành phố Hà-nội).