Nam Hải dị nhân liệt truyện/19
19. — Nguyễn-bỉnh-Khiêm
Tiên-sinh húy là Bỉnh-Khiêm, hiệu là Bạch-vân cư-sĩ, người làng Trung-am, huyện Vĩnh-lại, tỉnh Hải-dương. Tiên-thế nhà ngài có âm-đức, đời ông là Văn-Tĩnh được phong tặng Thiếu-bảo Tư-quận-công, được ngôi dương-cơ, hợp vào kiểu đất của Cao-Biền. Đời thân-phụ ngài là Văn-Định được phong tặng làm Thái-bảo Nghiêm quận-công. Mẹ ngài là Từ-thục phu-nhân họ Nhữ, nguyên là con gái quan Hộ-bộ thượng-thư là Nhữ-văn-Lan, ở làng An-tử, huyện Tiên-minh. Bà ấy thông kinh-sử, giỏi văn-chương, mà lại tinh nghề tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngoài 20 tuổi, thấy ông Văn-Định có tướng sinh ra quí-tử mới lấy. Về sau lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hàn, ngạc nhiên nói rằng: « Tiếc thay! Khi trước không gặp người này! » Hỏi ra thì chàng ấy là Mạc-đăng-Dung (về sau làm vua nhà Mạc). Bà ấy phàn nàn không ngần nào.
Bỉnh-Khiêm sinh về năm Tân-hợi đời Hồng-đức (niên hiệu vua Lê Thánh-tôn); đẫy đà to lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi đã biết nói. Một khi Văn-Định đang ẵm trên tay cho trông ngóng bỗng dưng nói rằng: « Mặt giời mọc về phương đông ». Văn-Định lấy làm kỳ dị. Đến năm lên bốn tuổi, phu-nhân dạy ngài học chính-văn trong kinh truyện, dạy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dạy học thuộc lòng vài mươi bài thơ nôm.
Một bữa, phu-nhân đi vắng, Văn-Định kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa một câu rằng: « Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung ». Đương đọc dở dang, thì con tiếp theo mà ngâm rằng: « Vén tay tiên hốt hốt rung! » Văn-Định thấy con thông minh mừng lắm, về khoe truyện với phu-nhân. Phu-nhân giận nói rằng:
Mặt giăng là phận bày tôi, sao ông lại dạy con điều ấy?
Văn-Định thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức, xin từ về, nhất định không ở đấy nữa, về sau bà ấy già dời ở nhà bố mẹ đẻ.[1]
Khi Bỉnh-Khiêm còn để hai trái đào, cùng bọn trẻ con tắm ở bến Hàn, có người đi thuyền trông thấy nói rằng:
— Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dày lắm, chỉ làm được Trạng-nguyên Tể-tướng là cùng!
Khi ngài bé thì học ở nhà, đến lúc nhớn, nghe tiếng ông Bảng-nhãn Lương-đắc-Bằng hay chữ, mới vào Thanh-hóa theo học ông Bảng-nhãn.
Lương-đắc-Bằng vốn ở làng Hội-trào, huyện Hằng-hóa. Nguyên có một chi họ lạc sang ở Vân-nam, đời đời làm quan bên Tàu. Khi Đắc-Bằng sang sứ nhà Minh, gặp một người cùng họ là Lương-nhữ-Hốt cho một quyển « Thái-ất thần-kinh ». Đắc-Bằng đem về học tập, cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng tính biết được trước.
Nguyễn-bỉnh-Khiêm học hết được phép thuật của ông Lương-đắc-Bằng. Khi ông Đắc-Bằng mất, dặn lại Nguyễn-bỉnh-Khiêm về sau phải trông nom cho con mình là Lương-hữu-Khánh.
Trong năm Quảng-thiệu (Lê Chiêu-tôn), có việc biến loạn, Nguyễn-bỉnh-Khiêm ở ẩn một chỗ, không muốn cầu tiếng tăm với đời. Bấy giờ, Trịnh-Tuy, Mạc-đăng-Dung cùng có ý muốn tranh quyền, đánh nhau luôn mấy năm. Ngài tính số Thái-ất, biết cơ nhà Lê lại khôi phục được.
Ngài có bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi bình-thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười!
Cá vực, chim rừng ai khiến đuổi?
Núi xương, sông tuyết thảm đầy nơi!
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ.[2]
Thú dữ nên phòng lúc cắn người.[3]
Ngán ngẩn việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi!
Về sau, nhà Mạc chiếm giữ Kinh-thành, bốn phương đã hơi yên ổn, các bạn bè nhiều người khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất-đắc-dĩ phải ra thi, thi đỗ Trạng-nguyên năm Đại-chính thứ sáu nhà Mạc. Bấy giờ ngài đã 44 tuổi.
Vua nhà Mạc cất ngài làm Tả-thị-lang, Đông-các đại-học-sĩ, Ngài làm quan được 8 năm, trước sau dâng sớ hạch 18 người lộng-thần, nhân có chàng rể là Phạm-Dao cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo về dưỡng lão.
Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng, gọi là am Bạch-vân, lại bắc hai dịp cầu gọi là cầu Nghênh-phong và cầu Tràng-xuân, thường thường ra chơi hóng mát. Lại làm một cái quán Trung-tân ở bến sông Tuyết-giang, dựng bia kí sự mình. Khi thì ngài bơi thuyền chơi ở bể Kim-hải và bể Úc-hải; khi thì đi với một vài nhà-sư chơi ở các núi An-tử, núi Ngọa-vân, và núi Đồ-sơn. Đi đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy, hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít, thì lấy làm khoái chí lắm, nhởn nhơ cả ngày.
Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí trọng, nhà nước có công việc gì to, thì sai sứ đến hỏi tận nhà, hoặc khi mời về Kinh mà hỏi. Ngài bàn định lắm điều ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại-bộ thượng-thư, Thái-phó Trình-quốc-công, vì thế ta thường gọi là Trạng Trình.
Năm Ất-dậu, ngài phải bệnh, Mạc-mậu-Hiệp sai sứ đến thăm và hỏi việc hậu sự.
Ngài bảo rằng:
— Ngày sau, nước có việc, ở xứ Cao-bình tuy nhỏ, nhưng cũng có thể hưởng phúc được vài đời nữa.
Đến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao-bình, quả nhiên còn giữ được 4 đời, rồi mới tuyệt.
Ngày 28 tháng một năm Ất-dậu ngài mất, thọ 95 tuổi. Học-trò gọi ngài là Tuyết-giang phu-tử.
Ngài học tinh về thuật số, phàm các việc tai, tường, họa, phúc, cùng là ngày mưa, ngày nắng, việc gì cũng biết trước. Có một người học-trò tên là Bùi-Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí. Đến khi Bùi-Sinh gần 70 tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai. Ngài cười không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi-Sinh mượn lấy 10 chiếc thuyền đánh cá, cho bơi ra bến Hồng-đàm bể Vạn-ninh, dặn đến giờ ấy..... hễ gặp cái gì thu lấy đem về, chắc được thưởng to. Bùi-Sinh tuân nhời, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo mũ chỉnh tề, thuyền bạt phong đến đấy. Bùi-Sinh đem về phụng dưỡng coi như mẹ. Được vài hôm, có quan Tổng-đốc Quảng-đông sai người sang nói với vua rằng: « Thái-phu-nhân chơi bể bạt phong, xem thiên-văn thì thấy ở phương nam, xin nhà vua vì nghĩa láng giềng mà tìm giúp cho. » Ngài sai Bùi-Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận-công.
Năm Thuận-bình thứ 8 nhà Lê (1556), vua Trung-tôn mất không có con, bấy giờ Trịnh-Kiểm đang cầm quyền, có bụng hồ nghi, không biết nghĩ ra thế nào. Hỏi Phùng-khắc-Khoan, Khắc-Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai người đi lẻn ra Hải-dương để hỏi ngài, ngài chẳng nói câu gì, chỉ ngảnh lại bảo đầy-tớ rằng:
— Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.
Nói rồi, sai tiểu quét dọn đốt hương, để ngài chơi chùa và bảo tiểu rằng:
— Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.
Đó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải giữ đạo làm tôi ăn mày phật thì mới được hưởng phúc.
Sứ-giả về nói với Trịnh-Kiểm, Trịnh-Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh-tôn lập lên, quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh cũng đời đời được vinh-hiển.
Khi ấy đức Dụ-tổ triều Nguyễn ta (Đức Nguyễn-Hoàng) đang có hiềm với Trịnh-Kiểm. Trịnh-Kiểm có ý muốn âm hại, đức Dụ-tổ lo sợ, không biết nghĩ mưu gì cho tránh được nạn, mới sai người đi hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn cảnh. Trong vườn có vài mươi ngọn núi non-bộ, lại chồng chất đá làm một rặng núi ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem đàn kiến, rồi tủm tỉm cười nói rằng:
— Một dải núi Hoành sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời.
Người kia thấy nói vậy, về nói với đức Dụ-tổ. Đức Dụ-tổ biết ý, mới xin vào trấn thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy có dải núi Hoành-sơn), quả nhiên mỗi ngày một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn-triều.
Học-trò ngài rất nhiều, nhưng chỉ có Phùng-khắc-Khoan, Lương-hữu-Khánh, Nguyễn-Dữ, Trương-thời-Cử là làm nên to mà có danh vọng hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy về nghề lý-học, cùng làm danh-thần lúc nhà Lê trung-hưng.
Khi trước ông Phùng-khắc-Khoan thuê nhà đến học ngài. Lúc học giỏi rồi, ngài đang đêm đến chơi nhà chọ, gõ cửa mà bảo rằng:
— Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi đấy ư?
Nhời ấy có ý giục ông Khắc-Khoan vào Thanh-hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc-Khoan cũng biết ý thế, mới cùng với Nguyễn-Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Tính ngài thuần nhã, không hay nói, mà đã nói câu nào thì là đích đáng. Ngài làm ra thơ từ rất nhiều, đến nay vẫn còn một tập thơ Bạch-vân và một quyển sấm ký truyền lại.
Khi ngài mất rồi, người làng nhớ ân đức của ngài, lập miếu ở nơi nhà cũ cho ngài, bốn mùa cúng tế. Miếu ấy đến bây giờ vẫn còn.
Chú thích
- ▲ Tục truyền bà ấy tức ông Văn-Định lên Sơn-tây lấy chồng khác, sinh ra ông Phùng-khắc-Khoan (tức ông trạng Bùng).
- ▲ Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước.
- ▲ Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê.