Loạn hậu cảm tác - 亂後感作
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

神州一自起干戈
萬姓嗷嗷可奈何
子美孤忠唐日月
伯仁雙淚晉山河
年來變故侵人老
秋越他鄉感客多
卅載虛名安用處
回頭萬事付南柯

Thần châu[1] nhất tự khỉ can qua[2],
Vạn tính ngao ngao khả nại hà ?
Tử Mỹ[3] cô trung Đường nhật nguyệt[4] ;
Bá-nhân[5] song lệ Tấn sơn hà.
Niên lai biến cố xâm nhân lão ;
Thu việt tha hương cảm khách đa.
Tạp tải hư danh an dụng xứ ;
Hồi đầu vạn sự phó Nam kha.

Thần châu từ lúc nổi cuộc can qua,
Muôn dân rên xiết biết làm sao được.
Tử Mỹ giữ lòng trung mồ côi đối với ngày tháng nhà Đường;
Bá-nhân ứa nước mắt hai hàng mà khóc non sông nhà Tấn.
Mấy năm đây biến cố khiến người ta mau già,
Qua mùa thu ở đất lạ lòng khách nhiều cảm.
Ba chục năm hư danh có dùng làm gì ?
Quay đầu muôn việc cũ đều phó cho giấc Nam kha.

   




Chú thích

  1. Thần châu: Dùng để chỉ nước nhà một cách quý mến
  2. Can qua: có chiến tranh từ khi quân Minh xâm lược nước ta
  3. Tử Mỹ: Tức Đỗ Phủ, thi hào Trung Quốc ở đời Đường, trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường đau đớn ôm lòng cô trung với nhà Đường
  4. Nhật nguyệt: là ngày tháng, tượng trưng cho ngôi vua (niên hiệu)
  5. Bá nhân: Chu Nghĩ, người Trung Quốc đời Tấn, làm Thượng thư Tả bộc xạ. Khi nhà Tấn mất, ông chạy sang Giang Đông cùng các danh sĩ yến hội ở Tân Đình, nhìn con sông mà ứa lệ khóc