Khối tình con của Tản Đà
1. — Bài Cổ-bản
V — LÝ

1Bài Cổ-bản

(Nói về liệt-đại anh-hùng nước ta)

Dân số, hai-nhăm (25) triệu; về giống da vàng, chi Hồng-bàng, họ dòng Hùng-vương. Học cho tường, truyện nhà làm gương. Xưa Văn-Lang trường trị, sau trước Chu, Đường ấy là đâu, về đời hồng-hoang. Nhiều truyện còn phi thường, mặt anh-hường anh-hường.— Trưng-thị quần thoa. My-linh tướng-tài. Đời Đông-Hán, Hán-quan vô loài. Riêng thù chị lận-bận lòng ai; núi sông thề nguyện, yên ngựa cành mai. Cơ đồ bá vương, gái tài giai. — Sông Bạch-đằng-giang, giồng cọc, là đứng Ngô-Quyền; Hoằng-Thao chìm thuyền, sóng vừa yên. — Đến hồi Trần-Tiên, Quang-Phục, độc-mộc tranh cường. Qua sang Tùy, Đường, có Phùng-Hoan. — Đinh Tiên-Hoàng, Đinh Tiên-Hoàng; Tiên-Hoàng oai thần. Lá cờ lau, thống thần dân. Khai đầu đế-nghiệp, Lê, Lý đến Trần. — Gịp yêu-hồ, bản-đồ về Minh. Một người Lam-san, ngùi lầm-than, đánh mười thu. Gươm vàng Lê-Lợi, lau sạch máu thù; nọ còn chìm trong hồ. — Ngang đời nhà Thanh, ấy Càn-Thanh. Tôn, Tôn, Sầm, Tôn, Tôn, Sầm; Tôn Sầm hai ả, binh mã tung-hoành. Động nam-đình, trận thành Thăng-long, ngọn cờ Quang-trung. — Dòng thần-minh, khách tài danh; nghe nhời ca lý, bao hạn tâm-tình!