Xem tác phẩm có tựa đề tương tự tại Ký hữu.
Ký hữu - 寄友
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

半生世路嘆屯邅
萬事惟應付老天
寸舌但存空自信
一寒如故亦堪憐
光陰焂忽時難再
客舍凄涼夜似年
十載讀書貧到骨
盤惟苜蓿坐無氈

Bình sinh thế lộ thán truân chiên ;
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đản tồn không tự tín ;
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thì nan tái ;
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy mục túc[1], tọa vô chiên[2].

Bình sinh đường đời than nhiều vất vả ;
Muôn việc chỉ nên phó mặc trời già !
Tấc lưỡi hãy còn, luống tin hãy còn nói được ;
Vẫn nghèo như cũ, cũng đáng thương thôi.
Quang âm vùn vụt thời khó trở lại ,
Quán khách lạnh lùng đêm dài như năm.
Mười năm đọc sách mà nghèo đến xương ;
Trong mâm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi không có lót chiên.

   




Chú thích

  1. Bàn duy mục túc: Tiết Lệnh Chi người đời Đường, làm quan ở Đông cung, không có bổng lộc gì, làm thơ tự than có câu: « Bàn trung hà sở hữu, Mục túc trường lan can ». Mục túc là một thứ rau đậu tầm thường, người ta dùng để ăn chay hay là dùng cho gia súc ăn, cũng dùng làm phân xanh. Các bản đều chép « Bàn vô mục túc », nghĩa là trong mâm không có rau mục túc, như thế thì câu thơ tối nghĩa. Đối chiếu với câu thơ của Tiết Lệnh Chi, có lẽ là « Bàn duy mục túc » (chữ 惟 duy và chữ 無 vô dễ lẫn với nhau). Như thế thì câu thơ nghĩa là ăn thì chỉ toàn rau mục túc
  2. Chỗ ngồi không có đệm chiên lót, vì nghèo không sắm được