Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự
IV. Lương Sinh và Dương Dao Tiên lấy nhau

1525Mấy thu tên đá bời bời,
Biết đâu sinh hãy trong vây giữ-gìn.
Vỗ-về lẽ khích lời khuyên,
Đắp cao thành nghĩa, chống bền rào trung.
Hãm lương, Hồ những để rông,
1530Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.
Dằng-dai bạn duật bao lâu,
Bóng ô hè giục sang thâu bấy-chầy.
Diêu từ ruổi chốn ải mây,
Tin Lương biết hãy trong vây đã mừng.
1535Hiềm vì thống-tướng non lưng,
Đóng quân kín lũy cầm chừng chẳng sai.
Lĩnh quân Diêu mới quyết bài,
"Đặc truyền" tức khắc hàm mai tiềm-hành.
Đêm khuya lét thấy binh tình,
1540Ngọn cờ ngơ-ngác, trống canh trễ-tràng.
Phá kiêu nghĩ cũng dễ-dàng,
Đóng doanh, kíp thảo hai trương một bài.
Hẹn cho giờ sửu đêm mai,
Giấu cờ hiệu súng trong ngoài giáp công.
1545Lên nơi cao phụ đứng trông,
Mũi tên thuận gió một phong bắn vào.
Lương vừa khuya tựa trướng sao,
Thấy quân bẩm được thư nào trình xem.
Phong thư vẹn-vẽ còn in,
1550Mở xem thực dấu chữ em rõ mười.
Suốt canh ngẫm-nghĩ đòi thôi,
Mấy tên chiến-tướng cũng đòi vào ngay.
Chư-quân trông ngóng lâu nay,
Biết mưu, mài cánh day tay đợi truyền.
1555Lũy Dương gần cũng thông tin,
Hội binh một khắc giải liền hai vây. Khác gì hùm cũi ra ngoài,
Ấy là thoát tội đoạn rồi lập công.
Thừa cơ lò lửa mũi lông,
1560Cúc kềnh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng.
Thanh-bình một biểu tâu dâng,
Thảnh-thơi yên khấu chân nưng khải hoàn.
Gia-thư nhẹ ruổi chân nhàn,
Tin lành sớm đã lọt màn Tiền-nha.
1565Vân Hương vào trước trình qua,
Nỗi thân, nỗi nghĩa như hoa nở lòng.
Gánh sầu cất nhẹ như không,
Càng xem tin báo, càng mong độ về.
Thương canh lần dịch dóng khuya,
1570Rõ tường bản đạo kéo về kinh-đô.
Rồng mây một hội nghìn thu,
Gác Đường vẽ mặt, yến Chu thỏa lòng.
Người tài lược, kẻ tinh-trung,
So vào công tải đều phong liệt-hầu.
1575Lại cho thế tập về sau,
Rành rành khoán núi, làu làu thư sông.
Móc mưa nhuần gội chập-chùng,
Bể sôi, chợ họp người trong sảnh-đường.
Rước mừng tân-hữu rõ ràng,
1580Có Lưu công-tử anh nàng Ngọc Khanh.
Mới vâng ấm bổ phó kinh,
Đến mừng nhân kể ngọn-ngành sự em.
Dẫu khi vui cũng chạnh niềm,
Chửa cam tình nọ, lại thêm nghĩa này :
1585"Lửa hương nào đã chi đây,
"Mà liều cung nước làn mây hỡi người !
"Khối tình mang nặng nghìn đời,
"Đỉnh-chung hầu dễ ăn ngồi được đâu.
Tiếc hoa ngần-ngại nét sầu,
1590Vừa khi Dương-tướng thôi chầu vào chơi.
"Việc gì dường khác vẻ vui ?"
Thấy lời sinh mới kể lời duyên-do.
Thương tình mà ngậm-ngùi cho,
Rằng : "Danh-tiết ấy thơm-tho ai bì.
1595"Sao không tâu đến đan-trì,
"Họa là tinh biểu chút gì trả nhau".
Nghe lời vội thảo bản tâu,
Vào trong tiện điện buổi sau tiến trình.
Gương trời soi rõ mảnh tình,
1600Vẽ lòng lá sắc, tạc danh biển vàng.
Khi thân nghị đạo cương-thường,
Thung-dung lại phán hỏi Dương sự nhà.
Thềm phong khúm núm tâu qua:
"Hiếm hoi một gái tuần đà thèm hai.
1605"Những là giong-ruổi cõi ngoài,
"Phòng hương nên hãy còn cài cửa thoi".
Năm mây chiếu-dụ rạch-ròi,
Giao Tiên truyền kíp sánh đôi cùng chàng.
Tạ ơn cùng xuống điện vàng,
1610Vội mừng nào đã kịp đường tính xa.
Về dinh ngẫm-nghĩ việc nhà :
"Đành người có nghĩa, sao ta vô tình.
"Bến Tương việc hãy rành rành,
"Nào đà kết cỏ, ngậm vành chi đâu.
1615"Vì ai cho thiệt-thòi nhau,
"Ấy ai dứt được mối sầu cho đang,
"Chưa cầm-sắt, cũng tao-khang,
"Nỗi dây thế chẳng vội vàng lắm ru.
"Mai sau chín suối thấy nhau,
1620"Cậy ai đổi được mặt đâu với người,
"Duyên kia trót đã nặng lời,
"Kíp chầy trong mấy thu trời quản đâu".
Nghĩ duyên càng gảy tơ sầu,
Nghĩ mình, mình lại thêm đau-đớn mình.
1625Sang chơi vừa gặp Diêu-sinh,
Thở-than mới kể sự tình khúc nôi:
"Thôi thôi anh đã lầm rồi,
"Chấp kinh dường ấy ra hơi trần trần.
"Tình phu-phụ, nghĩa quân-thân,
1630"Trong tam-cương ấy, xem phần nào hơn ?
"Tôi còn chút phận thờn-bơn,
"Xe duyên là mấy, đội ơn cao dày.
"Băn khoăn xuân cỗi, huyên gầy,
"Mảnh nguyền hữu thất đến rày chửa nguôi.
1635Mặc người tựa cửa hôm mai,
"Cầm lòng vì lánh một người thế ru ?
"Sợ khi đương bể mà dâu,
"Hiếu tình lại dở-dang nhau mặc lòng.
"Nghĩa kia đành tạc non sông,
1640"Biển vàng may thế chữ đồng cũng cân.
"Dù chưa cắt hết tơ trần,
"Đành cho lập miếu phong thần về sau.
"Ấy lời tâm-phúc cùng nhau,
"Tính sao cho được trước sau vẹn nghì".
1645Tưng-bừng sắm-sửa lễ nghi".
Đào phen xanh chổi, hoa kỳ thắm sây.
Rõ ràng một cuộc vui-vầy,
Đủ lề nạp thái, định ngày nghênh hôn.
Đuốc hoa lồng bóng trăng tròn,
1650Tình riêng vẹn cả vào khuông xướng-tùy.
Trai tài gái sắc ai bì,
"Doanh-châu" ấy khách, "Dao-trì" nọ tiên.
Đã người mới, lại người quen,
Tiên-hoa chép chữ lương-duyên đến già.
1655Gió đưa lời, cánh bay xa,
Vừa Long Đề-học thuyền đà tới kinh.
Rõ nghe hết thảy các tình,
Bài sai lại thấy biển tinh chữ bài.
Đòi nàng ngỏ dạy trước đài,
1660Cùng làm một sớ đến mai lên chầu.
Nàng nghe ren-rén cúi đầu :
"Bọt-bèo dám động cao sâu thêm nhàm.
"Rủi may theo phận là cam,
"Đã đành duyên ấy lại tham nỗi nào.
1665"Vả trên chín bệ thẳm cao,
"Dễ đâu mà tỏ âm-hao cho mình.
"Sao bằng mình sạch lấy mình,
"Mặc ai nhạt nghĩa, mặn tình nghĩ chi".
Cạn lời ông mới gạt đi,
1670Rằng : "Như bài ấy, sắc kia phụ gì.
"Ví dù bội chốn kết nghì,
"Là vâng chỉ ngọc dám ghì lòng đanh.
"Ví sưng sưng quyết lấy mình,
"Bóng đâu quê cũ phỏng đành đấy chăng ?
1675"Ngẫm cơ ghềnh Thái các Đằng,
"Hay đâu là chẳng xích-thằng sẵn xe".
Dứt lời bần-bật lặng nghe,
Tạ rồi liền dạo gót về hiên sau.
Tan canh vừa buổi ban chầu,
1680Sớ-văn Long đã quì tâu sân đền.
Khen rằng : "Này thực thiên duyên,
"Ngọc Khanh đọ với Ngọc Liên chi nhường"
Đòi Lưu công-tử xem tường,
Chân tơ, kẽ tóc rõ-ràng chăng nhe !
1685Ông tơ khoảnh-khách mới kỳ !
Mượn ơn mưa-móc, kết nghì trúc mai.
Cửa Lương duyên lại sánh đôi,
Dồi-dào tình trước, đền-bồi nghĩa sau.
Cũng ban nhất phẩm như nhau,
1690Khuê-môn cho dệt mối đầu chính-phong,
Ngửa trông ơn sóng trùng trùng,
Hai bên khấu-tạ sân phong ra về.
Lòng hoa phấp-phới đôi bề,
Vội-vàng vào trước hương-khuê ngỏ lời.
1695Nhơn nhơn nét phấn thêm tươi,
Rõ ràng kể hết đầu đuôi sự tình :
Tưởng rằng trong đạo thường kinh,
"Thân bồ-liễu lấy chữ trinh làm lề.
"Hay đâu sống thác chẳng nề,
1700"Nỗi-niềm nghĩ lại mà ghê-gớm đời.
"Nghìn xưa âu hẳn một người,
"Ấy ai lại dám xem ai là thường.
"Vả vì chút nghĩa cũ càng,
"Dẫn thân vào chốn chiến-tràng với nhau.
1705"Làm cho liễu ủ, đào rầu,
"Trăm năm riêng để gánh sầu cho ai.
"Đành rằng nát ngọc trầm trai,
"Ai ngờ trong cõi tuyền đài thấy nhau.
"Ấy là cơ Tạo nhiệm mầu,
1710"Bể oan tưởng có trên đầu sáng soi.
"Bây giờ lầm-cát mặc ai,
"Vinh-hoa riêng lấy một đời hay sao.
"Khi ăn nói, lúc ra vào,
"Nghĩ nguồn-cơn ấy làm sao cho đành."
1715Mấy lời sắt đá đinh-ninh,
Khúc tằm đem mối tơ-tình gỡ ra.
Sắm-sanh vội mở tiệc hoa,
Quản-huyền ríu-rít, ỷ-la rỡ ràng.
Xe châu trăm lạng chen hàng,
1720Gió xuân Đồng-tước bằng nhường là đây.
Hội đào xưa, đã lại rày,
Tiên đưa vẻ ngọc, Ngọc vầy đoàn tiên.
Xin nhau trân-trọng muôn nghìn,
Chút nào là thẹn với duyên nguyện thề.
1725Xét cho công-khóa đi về,
Nguyệt, Hương đều cũng cam bề tiểu-tinh.
Nhà yên vừa dịp nước bình,
Hai sinh đều tấu đan đình vinh qui.
Cẩm-hoàn một lá hồng-kỳ,
1730Lương thì quí tỉnh, Diêu thì hoàn hôn.
Diêu-đường Dương nhạc hai thân,
Viện lề nhân cũng só-trần minh nông.
Thênh thênh dặm tía lối hồng,
Vẻ nhuần mã gấm, hương lồng vó câu.
1735Mảng vui cờ cuộc rượu bầu,
Cầm bên bóng nguyệt, thi đầu ngàn thông.
Viện đường thủy lộ thong-dong,
Con thuyền lại thuận một giòng nước xuôi.
Chiều ai hoa cỏ đua tươi,
1740Tiếng chim đâu đã sai-nha đệ về.
Hương bay muôn dặm tử-phần,
Tràng -châu nay đã gần gần tới nơi.
Người đón rước, kẻ mừng vui,
Ghé thuyền sinh cũng tiện dời vào ngay.
1745Phủ Diêu tiệc ngọc phô-bay,
Mây lồng cờ mở, hương bay, chén kèo.
Động phòng, kim bảng đủ điều
Khi vui kể hết bao nhiêu là tình.
Đài Dương về Vọng-Ba đình,
1750Tiệc vui cũng rước hai sinh sang nhà.
Rõ ràng cỡi ngựa xem hoa,
Bức thư sớm đã sai nha đệ về.
Từ ngày tin-tức đến quê,
Hai lần cáo thú đã nghe rõ-ràng.
1755Phong thư nay lại xem tường,
Tình càng thêm thỏa, cảnh càng thêm thanh.
Dập-dìu nghi-lễ sắm-sanh,
Ngựa yên khảm ngọc, xe mành ken châu.
Ngọn cờ mây rợp thôn dâu,
1760Bồng-lai xe hạc, Dương châu lưng tiền.
Tiếng thơm dậy đất sấm rền,
Cửa Lưu xa cũng nhặt truyền tin sương.
Tấc riêng mừng-rỡ trăm đường,
Nhạt tanh chuyện cũ bằng đường đã quên.
1765Kiệu hoa dạo-giục rước liền,
Đành theo tình mới cho đền lỗi xưa.
Vui lòng xuân cỗi huyên tơ,
Rước mừng xem cũng bơ-vơ những điều.
Đoàn viên một cuộc gấm thêu,
1770Cúc đầy vơi chén, cầm dìu-dặt cung,
Tân-bằng yến-ẩm vừa xong,
Thung-dung Lưu mới vào trong ngỏ bày:
"Từ xưa biết lỗi đã dầy,
"Tấm lòng ngậm hổ từ rày về sau.
1775"Vị-dương một tấm tình sâu,
"Sang mừng vội tả chút sầu bấy nay.
"Hạt châu trót đã sẩy tay,
"Tự mình trăm nỗi chả hay đã đành".
Cúi đầu nàng mới rén trình :
1780"Rủi may, âu cũng phận mình xui ra.
"Móc-mưa sấm-sét cũng là,
"Cao sâu đâu nữa chẳng qua vòng trời.
"Vả trong dại dạ hèn đời,
"Trắng-trong đã vậy, ngọt bùi làm sao.
1785"Bỗng đâu rồng trúc sóng đào,
"Chia ra đã hẳn, ép vào khéo xinh.
"Vẹn tròn bên nghĩa, bên tình,
"Khuôn duyên kia đã chiều mình là may.
"Tam-công chẳng đổi một ngày,
1790"Chuyện xưa còn để đến rày sao nên".
Giúp lời sinh cũng mở khuyên,
Thuận-hòa từ đấy cũng in một lòng.
Đòi phen cợt phấn cười hồng,
Ngọc lung-lay động, hương nồng-nã rơi.
1795Xuân quang cả bốn mùa trời,
Gió đưa, trăng rước, hoa mời, tuyết khuyên.
Phồn-hoa bõ lúc truân-chuyên,
Đã đầy phúc-hậu, lại bề hiển-vinh.
Ngửa vâng phượng chiếu rành rành,
1800Lại đem gia-quyến đến kinh lên chầu.
Buồm quan một lá giòng sâu,
Siêu-thăng thoắt đã đứng đầu nam-nha.
Quan châm chẳng chút sai-ngoa,
Lộc trời chung-đỉnh, gánh nhà quân-dân.
1805Gió thu gợi dạ tử-phần,
Sớ-từ lại thấy tỉnh-thân làm lề.
Rõ ràng áo gấm về quê,
Vó câu lỏng khấu, bánh xe êm bồ.
Mạch văn còn dõi dòng nho,
1810Hùng-bi mấy giấc đã phô điềm lành.
Sởn-so lan huệ nức cành,
Lễ-thi cứ phép cửi-canh giữ lề.
Ân-tình đủ cả hai bề,
Nẩy thân Long-hạm kết nghìn Diêu-môn.
1815Phúc thường để đến nhi-tôn,
Bảng vàng theo nếp, cửa son dõi đời.
Gót đầu bàn lại mà chơi,
Phong-hoa hai chữ cõi đời ai không.
Lấy tình gặp-gỡ đã xong,
1820Trước sau vẹn một chữ tòng mới ghê.
Lời quê dù đã nhầm nghe,
Gác bên tình-tứ giữ bề hiếu-trinh.
Luân-thường sáng để rành rành,
Chớ đem bác hẳn mà khinh làm thường.
1825Nôm-na đỡ chút canh trường,
Kể rồi dặn lại hai đường thế hay.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.