II

Đặng-Mậu-Lân tuy lấy được Ngọc-Lan công-chúa, nhưng cũng như không. Là vì mỗi khi y muốn chung chăn gối với nàng, lại bị Sử-trung ngăn cản. Không được như nguyện, Lân rất tức giận, một hôm y bảo Sử-trung:

— Chúa tưởng con gái Chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra thật không bằng con bé xách giày nhà ta, có quí hóa gì? Đây ta không phải ham gì nhan-sắc nó, nhưng mà tốn kém bao nhiêu tiền của, mới lấy được một con vợ. Nếu không ra trò, thì rồi tống cổ đi. Mày muốn sống, muốn tốt tìm đường kiếm nẻo mà đi. Đừng bảo ta không bảo trước.

Sử-trung đáp:

— Quan-lớn không nên nói quá, nhà Chúa không phải người thường.

Lân càng nổi giận đùng đùng mà rằng:

— Mày đem Chúa để dọa tao chăng? Chúa là cái gì?

Dứt lời, Lân tuốt thanh gươm phăm-phăm nhằm cổ Sử-trung mà chém. Sử-trung chết dãy đành đạch không kêu được một tiếng.

Tức-thì Lân sai đóng chặt cửa dinh, trong không được ra, ngoài không được vào, y muốn làm cho tiêu tan cái thây Sử-trung. Ngọc-Lan nghe chuyện sợ quá, lập-tức bảo một ả thị-nữ chui qua lỗ cống chạy về phủ Chúa cáo cấp,

Sâm nghe tin báo giận lắm, liền sai thị-thần đốc toán lính canh đi bắt Lân.

Quân lính tới nơi, Lân vẫn vác gươm đứng ở trước cửa, và dọa:

— Đứa nào muốn chết thì cứ vào đây?

Toán lính chờn-vờn, không ai dám đến gần Lân. Thị-thần lại phải cho người về báo; Sâm sai quận Huy đem quân bổ vây, bắt Lân về phủ giao cho các quan nghị tội. Đình-thần đều nói tội giết sứ giả phải nên bêu đầu.

Thị-Huệ nghe tin, ra trước mặt Sâm khóc lóc xin chết thay em.

Sâm bất-đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết và giảm xuống tội phát-lưu.

Tuy Sâm rất giận Lân, nhưng vẫn nâng giấc Thị-Huệ như thường. Sở-dĩ Thị Huệ được vậy, một phần về vẻ xinh đẹp và ngón nũng-nịu của nàng, một phần nữa, cũng vì nàng đã có công đẻ được ra Cán. Lúc ấy Sâm vì ghét Tông, nên càng quí Cán. Sâm càng yêu Cán bao nhiêu, càng chiều Thị-Huệ bấy nhiêu.

Cán rất thông-minh, lúc nhỏ cũng khỏe-mạnh, nhưng càng lớn tiên-thiên càng bạc-nhược, không lúc nào trong mình hết sài: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay gầy như cẳng cà. Sâm đã sai người tìm các danh-y ở khắp tứ-xứ để chữa cho Cán. Người nào đã vào bốc thuốc trong phủ, cũng được thăng-thưởng: Nguyễn Thực từ chức Huấn-đạo được lên đến chức Tiến-triều, Chu Nghĩa Long là tên khách buôn được làm Điển-binh, lại phong-hầu nữa. Thuốc thang tốn-kém kể có trăm vạn, nhưng điều-trị hết năm ấy sang năm khác vẫn vô-hiệu.

Sâm lấy làm lo, một mặt sai người lễ-bái khắp các đền đài có tiếng linh-thiêng, một mặt thiết-lập đàn-tràng trong cung, đêm ngày đèn hương cầu-khẩn. Bệnh Cán vẫn đâu đóng đấy.

Có người tố-cáo với Sâm vì Dương tiệp-thư (tức Dương Ngọc-Hoan, mẹ Tông) thất-sủng, sinh ghen, mượn bọn đồng-cốt chôn thằng người gỗ ở trong cung làm bùa yểm Cán, cho nên Cán mới như thế. Sâm tin là thật, giận lắm, liền sai bắt hết người nhà của Dương tiệp-thư để tra. Nhưng chúng trốn cả, lùng khắp tứ phía không thấy người nào. Kẻ tố-cáo đưa Sâm vào cung, chỉ chỗ mà Dương tiệp-thư đã chôn người gỗ. Song lúc đào lên chẳng có gì cả. Việc đó mới thôi.

Vì vậy, Sâm vẫn còn ngờ, nên cứ để mặc Thị Huệ làm chay làm bùa, tha-hồ cúng lễ. Thày bùa, thày đồng ra vào tấp-nập, Bệnh Cán cũng vẫn khi tăng khi giảm, chẳng ra thế nào.

Chợt đến hồi Tông bị tội, thì Cán lại thấy khỏe mạnh, năm sau lên đậu, từ tuần « nung » đến tuần « áp » không có chứng gì quan-ngại, Sâm mừng mà rằng: « Trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Vả chăng, nó đã lên sởi, lên đậu, tức là thành người, không có việc gì mà ngại »,

Bấy giờ các quan trong ngoài đều có dâng thư chúc mừng.

Nhiều người khuyên Sâm giáng chỉ lập Cán làm thế-tử cho yên sự mong-mỏi của thiên hạ.

Sâm rất ưng ý.

Thánh mẫu Thái-tôn[1] được tin, liền nói với Sâm:

— Tông và Cán đều là cháu cả, « chị » không coi đứa nào hơn đứa nào. Nhưng Tông đã lớn lại không việc gì, Cán thì còn nhỏ lại hay đau yếu... Xin Chúa nghĩ đến tôn-xã, hãy tạm dành ngôi đông cung lại đó, may ra đứa con út[2] kia nó biết hối tội thì hay. Bằng không, chờ cho Cán lớn sẽ lập, cũng chưa muộn gì.

Sâm đáp:

— Tông và Cán đối với Thánh-mẫu là cháu, chưa bằng với tôi là con. Cổ-nhân đã nói: « Biết con không ai bằng cha », tôi chưa đến nỗi lẫn-lộn.... Vả chăng, việc đó do ở công-nghị triều-đình không phải vì tôi yêu đứa con nhỏ mà tự bày ra, Thánh-mẫu há chẳng biết vậy? Ngày nay nếu không sớm định ngôi trừ-nhị, chắc bọn quần-tiểu hãy còn ngấp-nghế mong đợi, tôi e rồi sẽ có vạ bất-trắc xảy ra. Huống chi ngôi báu của thiên-hạ, chỉ cốt phó-thác được người xứng-đáng mà thôi. Đã coi tôn-xã làm trọng, thì dẫu đến con đẻ ra cũng còn không dám tư-túi, lẽ nào tôi lại tư-túi với thằng con nhỏ? Nếu như bệnh Cán không khỏi, thì thà lập Quế-quận-công, trả lại giòng của ông bác, chứ không thể giao cho cái thằng bất-hiếu, để nó làm hỏng cơ-nghiệp của tổ-tiên.

Thánh-mẫu không dám nói nữa.

Sâm bèn sai bọn quan triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập Cán làm thế-tử.

Đã mấy năm nay bệnh cũ của Sâm vẫn cứ thỉnh-thoảng lại phát, có khi một tháng một lần, có khi nửa tháng một lần. Những lúc cơn bệnh nổi lên, thường thường hết sức nguy-kịch, nhưng rồi lại khỏi. Ngày thường Sâm rất sợ nắng sợ gió, cứ phải ở luôn trong cung, thắp nến suốt đêm suốt ngày. Nếu không phải phiên đại-triều, thì không bao giờ thấy mặt các quan. Sập ngự trong phủ Chúa có che bức trướng thủy-tinh, kiệu của Sâm đi cũng treo bức rèm thủy-tinh, để cản nắng gió. Các quan có trình việc gì đều do quan thị đưa tờ khải vào, rồi lại đưa lời Sâm ra. Dẫu đến các bậc thân-quí, một năm cũng chỉ được gặp mặt Sâm một lần, còn các quan văn-võ phần nhiều không hề được thấy long-nhan. Việc của phủ Chúa người ta đã ví như việc Thiên-tào, sự ngăn cách càng ngày càng tệ.

Lúc này bệnh Sâm lại kịch, chỉ có Thị-Huệ ngày đêm hầu hạ và Quận Huy thỉnh-thoảng ra vào mà thôi. Mẹ Sâm và các con gái Sâm ít khi được đến chỗ Sâm, hàng ngày vấn-an, chỉ đứng bên ngoài tẩm-môn hỏi thăm qua bọn quan thị rồi về.

Thừa dịp, Thị-Huệ bèn nói với Sâm:

— Tôi thờ Chúa, được Chúa đoái thương, thành ra nhiều người thù ghét, không biết sau này mẹ con tôi sẽ ở vào đâu?

Sâm yên-ủi:

— Thế-tử đã lên ngôi đông-cung, nước là nước của nó, rồi nàng sẽ làm mẹ cả thiên-hạ, người nào còn lay-chuyển được?

Thị-Huệ lại tâu:

— Sợ không dự-bị từ trước, đến lúc công-việc vội-vàng, sẽ bị người khác cướp mất.

Bấy giờ Quận Huy cũng có ở đó, Sâm nhìn ông ta và nói.

— Sau này ngươi nên giúp-đỡ chính-cung và thế-tử, cho yên lòng ta.

Quận Huy thưa:

— Tôi xin hết lòng với bề trên, kỳ cho đến chết mới thôi. Nhưng tôi muốn xin Nhà Chúa, bây giờ đương lúc tỉnh-táo, truyền lệnh để cho thế-tử nối ngài và lập chính-cung làm vương-phi, cùng coi việc nước, khiến cho sau này có mệnh nhất-định.

Sâm đáp:

— Phải đấy! người nên giúp ta việc đó!

Quận Huy lại tâu:

— « Vâng lời dặn, giúp việc nước » là việc lớn-lao, tôi không dám gánh vác một mình. Hiện nay Khanh Quận-công là bậc chí-thân của Nhà Chúa, Hoàn Quận-công là bậc sư-phó đại-thần, Châu Quận-công và Tứ-xuyên-hầu cũng đều ở trong chính-phủ, cùng có đức-vọng. Diễm-Quận-công hiện làm Đông-cung a-bảo, Thùy-trung-hầu hiện làm Đông-cung bảo-vệ, cũng đều là hạng bề tôi có thể tin cậy. Vậy xin Nhà Chúa cho những viên ấy cùng chịu cố-mệnh với tôi.

Sâm bằng lòng. Quận Huy liền sai Tứ-xuyên-hầu thảo tờ « cố mệnh » và quan Thiêm-sai Nhữ-Công-Chẩn thảo sách để phong Thị Huệ làm Tuyên phi, hai người thảo xong, Quận Huy đem vào xin Sâm cho chữ.

Bấy giờ bệnh Sâm đã nguy-kịch, vừa có Thánh-mẫu vào thăm. Thị-Huệ ôm Sâm ngồi dậy, Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi, Sâm khóc và nói;

— Con xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho trọn trước sau. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột con đau như dao cắt. Xin mẹ ngự-giá về cung, cố ăn cố ngủ, mẹ đừng nghĩ gì đến con cho đau lòng mẹ. Còn việc sớm hôm thăm hỏi sau này đã có Tự-vương thay con.

Thánh-mẫu sụt-sịt ngập-ngừng hồi lâu, dường như có ý muốn nói về ngôi trừ-nhị, song vì có Thị-Huệ ở đấy, cho nên cũng khó hé răng. Quanh co đã lâu, Thánh-mẫu chưa ra, Sâm lại nói:

— Mẹ thương con không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau đớn lòng không thể nhắm mắt. Vậy xin mẹ ngự giá về cung.

Thánh mẫu bèn gạt nước mắt trở ra.

Sâm dặn Thị Huệ:

— Bệnh ta không khỏi, ta không được ở với nàng đến lúc bạc đầu. Nay ta quy-tiên. nàng ở lại thờ phụng Thánh-mẫu, nuôi nấng Tự-vương, còn duyên sắt-cầm đành hẹn nhau đến kiếp khác.

Thị-Huệ nức-nở đến hơn một khắc, rồi nàng cắt tóc và thề:

= Chúa không thương tôi, Chúa nỡ bỏ tôi vò-võ một mình! Tôi xin liều thân mà chết theo Chúa. Thờ phụng Thánh-mẫu đã có hai vị Công-chúa, giúp đỡ Tự-vương đã có các quan đại-thần, Chúa đừng giao-phó cho tôi những việc ấy.

Rồi nàng khóc òa lên.

Sâm ngảnh sang Thùy-trung-hầu và nói:

— Sau khi ta qua đời, các người phải nên khuyên-giải chính-cung cho khéo, chớ để nàng liều mình. Nếu như không thể cản nổi chí nàng, thì để nàng chung thuyền với ta cùng đưa về lăng, cho nàng được hầu-hạ ta ở nơi tẩm-viện.

Rồi Sâm cho đòi Quận Khanh Quận Hoàn vào chịu « cố-mệnh ».

Hai người tới nơi, Sâm miễn lạy, cho ngồi Hai người vừa khóc vừa thỉnh-an. Sâm nói:

— Con xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thày. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy-cấp, muốn cho Thế-tử Cán lên nối ngôi Chúa.

Nhờ chú, nhờ thày, đồng-tâm hiệp-lực, giúp nhà-nước trong lúc nguy-nan.

Dứt lời Sâm bảo Thị Huệ đặt mình nằm xuống.

Quận Huy quì gối muốn lấy tờ « cố-mệnh » dâng trình. Sâm chỉ sua tay lìa-lịa. Quận Huy tâu:

— Nay thánh-thể không yên, trong tờ « cố-mệnh » chỗ đề tên họ hãy còn để trắng, xin cho vương-thân Khanh Quận-công viết thay Sâm không nói được, chỉ gật đầu mà thôi

Quận Khanh bèn dùng bút phê, ngồi trước sập ngự lần-lượt viết tên mấy người vào chỗ bỏ trắng trong tờ « cố mệnh ». Viết xong lại đưa Sâm coi. Bấy giờ Sâm đã nhắm nghiền hai mắt, không biết gì nữa. Rồi Sâm tắt thở. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng 9, năm Nhâm-dần[3]. Sâm, sống 44 tuổi, làm Chúa được 16 năm.

Sau khi khâm-liệm cho Sâm, Quận Huy một mặt truyền cho các quan sắp sửa tang-lễ, một mặt trao tờ cố-mệnh và sách phong Tuyên-phi cho Thùy-trung-hầu sao lấy mấy bản đưa ra chính-phủ, rồi sai quan triều tâu lên vua Lê.

Ngay bữa ấy, vua Lê hạ sắc lệnh phong Thế-tử Cán làm Diễn-đô-vương.

Tức-thì các quan sắm-sửa nghi-trượng đến cửa Kính-thiên rước sắc về phủ Chúa.

Quận Diễm bế Cán bận áo triều đóng đai đội mũ, quì ở sân phủ nhận sắc. Bấy giờ ở ngoại phủ-đường đã có đặt sẵn sập ngự. Quận Diễm bồng Cán lên sập, các quan lần-lượt lễ mừng. Kế đó, Quận Diễm lại bế Cán vào Huỳnh-cung để lạy Thánh-mẫu, rồi ai nấy đều thay áo trở, làm lễ phát-tang.

Lúc Sâm sống đã làm sẵn cuốn Vạn-niên-thư, phàm các tang-lễ từ việc phạn-hàm đến việc đại-tế, nhập miếu, nghi-tiết thế nào đều có chua rõ; cho đến mấy chữ miếu hiệu « Thánh-tổ Thịnh-vương », trong sách cũng có ghi sẵn. Khi ấy chỉ cứ theo đó mà làm. Bảy viên đại-thần có tên trong tờ « cố-mệnh » đêm ngày túc-trực trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc, gọi là bảy quan phụ chính.

Vậy bảy người ấy tên họ là gì? tính nết ra sao?

Khanh Quận-công tức Trịnh Kiều, con thứ năm Trịnh Cương, em Trịnh Doanh, đối với Chúa mới là hàng ông chú. Kiều cũng là bậc tuổi cao đức cả, nhưng mà tính nết rất thật-thà, về các công việc không hề tỏ ý nên chăng.

Hoàn Quận-công tức Nguyễn Hoàn, người làng Lan-khê, huyện Nông-cống, đỗ tiến-sĩ khoa Quí-hợi, trước làm Hữu-tư-giảng của Sâm, sau lên đến chức Lại-bộ, có làm Tham-tụng[4], đã cáo-lão, lại bị gọi ra tham-dự triều chính. Hoàn có danh-vọng, được Chúa yêu, nhưng mà tính rất thuần-hòa, theo đời chìm nổi, dựa dẫm không quả-quyết.

Tứ-xuyên-hầu tức Phan Lê-Phiên, người làng Đông-ngạc, huyện Từ-liêm, đỗ tiến-sĩ khoa Đinh-sửu, đã làm đến chức Tham-tụng. Phiên tuy là bậc phong-độ đoan-trang, học-vấn rộng rãi, nhưng mà tính rất thâm-chầm, hay nương tựa vào bọn quyền-thế.

Châu Quận-công, Đàm Quận-công và Thùy-Trung-hầu đều xuất-thân ở hàng quan thị.

Châu Quận tức Lê Đình-Châu người làng Liên-hồ, đã từng hầu-hạ mấy triều, có làm chức Tri bình-phiên cơ-mật. Châu cũng cẩn hậu, lúc già, lấy tư-cách là bậc kỳ-cựu được vào chính phủ, nhưng mà không làm việc gì.

Diệm Quận-công tức Trần Xuân-Huy, người làng Khoái-lạc, huyện Thiên-bản, nguyên là gia-thần của Sâm khi còn ở nhà tiềm-để. Tới lúc Sâm lên cầm quyền, liền nhắc lên chức Tri Hộ-phiên. Huy cũng là bậc thuần-thục, cẩn thận. Sâm rất tin, sai làm A-bảo của thế-tử, đêm ngày ở luôn bên cạnh Tự-vương, không dự những việc bên ngoài.

Thùy-trung-hầu tức Tạ Danh-Thùy, quán làng Khang-thượng, huyện Yên-mô, đã làm Trấn-thủ ở Thanh-hoá, Thùy là người có cơ-trí, giàu văn-học, biện-luận rất giỏi, Sâm vẫn tin trọng, mới cho sung chức Bảo vệ của thế-tử, nhưng vì tuổi trẻ, chưa có danh vọng, vẫn phải chiều ý những người đồng-liêu.

Thế là hết thảy việc nước, đều do Quận Huy quyết định, không ai nói đi nói lại.

Nhưng sáu người kia, không phải ai cũng một bụng với Quận Huy cả. Bởi họ đều có địa vị danh-vọng, Quận Huy muốn kéo vào cánh đồng-sự, khiến họ khỏi có ý khác. Kỳ-thực chỉ có Quận Châu vốn là bè của Thị-Huệ, xưa nay tương-đắc với Phan Lê-Phiên, nên cả hai người đều giốc lòng với Quận Huy. Còn Quận Hoàn là bậc lão-nho, Danh-Thùy là hạng tiểu-tuệ, rút lại, không rõ bụng họ ra sao. Thực-thà không có ý gì, duy có Quận Khanh và Quận Châu. Bởi vậy, Quận Huy tự coi mình là chủ cuộc, hết thảy các việc, không cần đưa đẩy cho ai, tự mình sốc nổi gánh vác, những người kia đồng ý hay không, không thèm kể đến.

Lúc ấy Cán còn trứng nước, mà được lập lên làm Chúa, trong nước không khỏi có sự ngờ-vực. Ở các phường-phố, người ta súm năm tụ ba, kẻ nói Chúa mới bị bệnh rất nặng, chẳng bao lâu nữa trong cung sẽ có đại-biến, quận Huy uy-quyền lớn quá, không khéo hắn sẽ cướp nước; người nói Chính-cung vẫn tư-thông với Quận Huy, nàng sắp đem nước phó cho Quận Huy. Vì vậy, ở các đầu đường cuối chợ, mới có một câu phong-dao....

Quận Huy nghe tin, bèn sai quan Đề-lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, dọa rằng người nào còn dám tụ nhau nói chuyện, thì sẽ móc lưỡi xẻo đi. Từ đó, ở các đường xá, người ta chỉ dám ghé mắt ngó nhau, dân ở kinh-kỳ đều sợ nơm-nớp

Bấy giờ tình-thế Trịnh-Tông lại càng nguy nữa. Sau khi Chúa mới lên ngôi. Thị-Huệ vẫn muốn ngầm lén hại Tông, may có Danh Thùy khéo nói để che chở cho, Thị-Huệ bị lời Danh-Thùy lấn át, cho nên không dám. Nàng bèn cho Tông ra ở tại Tả xuyên-đường và bắt bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiện ra sức coi sóc. Mỗi ngày, chỉ có ba bữa cúng cha Tông mới được vào phủ-đường hồi bái lễ, xong, lại ra sở giam. Vì vậy Tông rất lo ngại, sợ rằng không thể thoát vạ.

Dương Thái-phi (mẹ Tông), phải nhờ người chị là Quận phu nhân họ Dương (cung-tần của Trịnh Doanh trước) vào kêu với Quận Huy rằng:

« Em tôi là cung-tần Dương Ngọc-Hoan và con út Chúa là Trịnh-Tông gửi lời lạy trình quan lớn xét cho: Đứa con út đó là kẻ có tội bị bỏ là phải, không dám phàn-nàn. Nhưng nay nó ở vào một cảnh-ngộ khó-khăn, tình thế đáng ngại, mẹ con nó lấy làm lo, muốn mong quan lớn đoái thương, che chở cho nó trọn vẹn. Cái ơn cứu sống của quan lớn, mẹ con nó đều xin tạc dạ ghi xương ».

Quận Huy vừa khóc vừa nói:

— Tôi khi thờ Nhà Chúa trước, được chịu ơn-huệ đã nhiều, kể nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình thì là cha con. Đấng quí-tử tức là con của Nhà Chúa, tôi có lòng nào, thì xin trời đất tru-diệt. Xin Quận phu-nhân cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương-tử và quí-tần rằng: Xin vương-tử và quí-tần cứ yên lòng, tôi xin hết sức che chở, không có điều gì phải lo.

Rồi Quận Huy sức ngầm bốn đội quan-quân, bắt họ phải lỏng lẻo bớt trong việc coi Tông. Từ đó gia-thần và các người cũ mới được ra vào, không bị dình dò.

Tông có tên bếp Dự-Vũ là người cũng có tâm-cơ, nói năng gẫy-gọn. Một hôm Tông hỏi ở ngoài lòng người ra sao, Dự-Vũ đáp:

— Nhà Chúa bỏ con cả lập con út, thiên-hạ ai cũng căm ghét, nhất là quân lính càng tệ, Hôm nọ trong khi Chúa mới lên ngôi, chiếu lệ có ban tiền bạc cho các quân-sĩ. Bấy giờ trong quân nhao-nhao, có kẻ nhất-định không nhận tiền ấy. Quận Huy hạ lệnh nghiêm-cấm, họ mới miễn-cưỡng phải theo, nhưng họ vẫn bất-bình.

Tông mừng thầm, đem việc đó bàn với một người tiểu-thụ tên là Gia-Thọ.

Gia-Thọ quán làng Bát-tràng, huyện Gia-lâm, cũng là một kẻ tinh-khôn, hắn nói với Tông:

— Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa-lý giảng-dụ, khiến họ một lòng tôn-phù, thì việc lớn có thể thành được.

Tông mừng lắm, bèn sai Dự-Vũ làm rượu, mời các thư-lại của bọn quân-lính đánh chén, rồi bảo với họ:

Thế-Tử chẳng có tội gì, chỉ vì bị mụ nghiệt-phụ họ Đặng làm mê Nhà Chúa, vu tội cho người để cướp ngôi Chúa của người. Rồi thì Quận Huy vốn đã có chí phản-nghịch, thấy Vương-tử Cán bé dại dễ kiềm-chế, hắn mới phụ-họa với mụ, mà gây nên việc bỏ người này lập người kia, để hắn làm quan phụ-chính cho tiện thi-hành cái mưu cướp nước của mình, Nay Chúa mới bị bệnh rất nặng, chỉ trong sớm tối sẽ có nguy-biến. Không biết rồi đây cơ nghiệp Nhà Chúa sẽ về tay ai? Quân lính ba phủ đều là người đất « tắm gội »[5] của Nhà Chúa, đã từng ra giúp việc nghĩa, vào bậc nanh vuốt nhà-nước, ai cũng sẵn lòng trung-nghĩa, ví thử còn nghĩ đến ơn Nhà Chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì nên giúp cho Nhà Chúa. Nếu mà trời cho xong việc, tất-nhiên sẽ có thư son khoán sắt, lưu-truyền muôn đời.

Mọi người đều nói:

Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương-tử ra sao. Sợ đến lúc đó hoặc có điều gì kinh-động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương-tử đã ngỏ ý cho biết, thì việc ấy cũng không khó gì.

Tan cuộc, mấy người đó bèn đi bảo ngầm các đội, hẹn ngày họp cả ở chùa Khán-sơn. Đúng ngày, quân lính đến họp rất đông. Trong lúc bàn việc, ai cũng tỏ ý hăng-hái, nhưng vì còn sợ thanh thế Quận Huy, chưa biết tới khi khởi-sự thì dùng cách nào cho hay.

Giữa lúc bàn-bạc, có người đứng phắt lên nói:

— Chỉ sợ anh em không được đồng-tâm mà thôi. Nếu như ba quân một lòng, chúng ta chờ lúc cúng cơm buổi sáng xong rồi, kéo vào phủ-đường đánh một hồi trống làm hiệu. Ba quân nghe hiệu đổ đến, cầm cẳng hắn lôi ngược xuống thềm một bậc là xong.

Mọi người thích lắm, cùng nhìn xem kẻ mới nói đó là ai.

Thì ra một người thư-lại của đội Tiệp-bảo tên là Bằng-Vũ.

Bằng-Vũ quê ở huyện Thanh-chương xứ Nghệ-an, cha ông vốn là công-thần trong đời nhà Lê trung-hưng. Về sau ơn-lộc đã hết con cháu lại, gặp cảnh hàn-vi, đến đời Bằng-Vũ, người làng mới « thế » làm lính Sau khi vào đội Tiệp-bảo, Bằng-Vũ nhờ vì biết chữ được làm thư-lại. Hắn tầm người thấp bé, nhưng cũng có vẻ thanh-tú, ra bộ học-trò. Trong lúc ở kinh, hắn hay làm mướn đơn kiện, nổi tiếng là bậc điêu-toa.

Lúc ấy vì hắn thủ-xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu hắn làm mưu-chủ, nhờ hắn vào trước phủ đường đánh trống, để làm đầu cho các quân lính.

Bằng-Vũ mạnh-bạo nhận lời. Cả bọn bèn cùng uống máu ăn thề. Nhưng không ấn-định ngày nào khởi-sự, họ chỉ hẹn nhau hễ nghe hiệu trống của Bằng-Vũ thì cùng kéo đến làm việc.

Bàn định đã xong, mọi người đương sắp ra về, bỗng có một người cản lại và nói:

— Anh em bàn vậy, vẫn chưa chu-đáo. Ý tôi còn muốn bàn thêm.

Người ấy là Bùi Bật-Trực quán làng An-toàn, huyện La-sơn, một tay danh-sĩ xứ Nghệ, xưa đã làm chức Viên-ngoại-lang. Hồi ấy vì bị mất quan, vẫn ở trong nhà quốc-cữu Viêm Quận-công. Trước đó khi bọn thư lại hẹn bọn quân-sĩ đến chùa Khán-sơn, Bật-Trực cũng có nghe tin phong-thanh, liền đem mưu-mô của bọn quân-sĩ nói nhỏ với Chiếu-lĩnh bá, con Viêm Quận-công và khuyên Chiếu-lĩnh nhập bọn với họ để hớt lấy công, Chiếu-lĩnh cũng lấy làm phải. Bật-Trực bèn tự làm người manh-mối giữa Chiếu-lĩnh với bọn quân-sĩ, vì thế mới đến dự cuộc với họ.

Khi ấy Bật-Trực xin bàn, mọi người đều để ý nghe. Bật-Trực nói tiếp:

— Việc này quan-hệ rất lớn. Nên nhờ quốc-cữu tâu với Thánh-mẫu, xin lĩnh chỉ-ý Thánh-mẫu mà làm. Giả-sử Quận Huy có biết, mình còn nắm được mật-lệnh làm cớ, tỏ rằng mình vẫn làm việc minh-bạch. Như thế mới là vạn-toàn.

Chư-quân vốn không cần chỉ Thánh-mẫu, nhưng vì đã có người của quốc-cữu dự hội, khước đi sợ sẽ lộ chuyện, vả lại, lời của Bật-Trực nghe cũng có lý, họ bèn cắt người theo chân Bật-Trực đến ra mắt Quận Viêm.

Trước khi chư-quân chưa tới, Chiếu-lĩnh đã đem ý định của mình nói sẵn với cha.

Quận Viêm vốn là một người tầm-thường, nghe thấy chuyện đó, sợ lắm, liền nói:

— Lính-tráng là bọn thô , khinh xuất, họ muốn làm gì mặc họ, dự vào làm chi?

Con vua thì lại làm vua. Ai làm vua ta cũng là quốc-cữu tiều-triều. Nay muốn cầu-công, nếu mà việc thành, ta cũng không thể phú-quí hơn nữa. Vạn-nhất bại-lộ, ấy là chết không chỗ chôn!

Chiếu-Lĩnh đáp:

— Bọn họ ước-định đã đâu vào đấy, thế nào họ cũng khởi-sự, quyết là phải xong. Cự-tuyệt với họ tức là bỏ uổng cơ-hội. Vả chăng sự giầu sang của cha kể cũng đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con nhân dịp mà lập công-danh. Con đã trót hứa với họ, bây giờ dù muốn cự-tuyệt cũng không thể được.

Một lát, chư-quân kéo đến, Quận Viêm bất-đắc-dĩ phải ra tiếp.

Sau khi chư quân nói qua ý-định của họ, Quận Viêm trả lời:

— Các người còn có lòng vì nước, huống-chi như tôi. Có điều các người muốn xin chỉ ý Thánh-mẫu thì nên đến nhà cháu tôi là viên Phó tri Binh-phiên Nguyễn Kiêm, bảo y bẩm với Thánh-mẫu. Bởi vì viên ấy coi về công việc ra vào Huỳnh-cung, sẽ không bị ai nghi ngờ Rồi tôi cũng xin nói thêm với Thánh-mẫu nữa.

Chư quân nghe lời, lại sang luôn nhà Nguyễn Kiêm.

Kiêm vốn là kẻ hèn nhát, nghe chư-quân nói, sợ hãi hết vía, bai bải từ chối. Chư-quân cố nèo:

— Việc này hiện đã bẩm với Thánh mẫu, người dạy như thế

Rồi họ ép Kiêm đến nhà Quận Viêm để lĩnh lời dặn của quốc-cữu mà vào tâu với Thánh-mẫu.

Cái việc Trịnh Sâm bỏ con lớn mà lập con nhỏ, Thánh-mẫu vẫn không bằng lòng, vì vậy, vừa nghe chuyện của chư quân định làm, Thánh-mẫu rất là hợp ý. Tuy vậy, bà cụ vẫn chưa thoát khỏi chí-khí đàn-bà, sợ lộ chuyện, quốc-cữu sẽ bị vạ lây, cho nên bà ấy muốn hãy dỗ ngầm Quận Huy, bắt hắn hãy cho Tông nhiếp-vị, để khỏi sinh biến. Lại nghĩ trong bọn bảy viên phụ-chính, chỉ có Nguyễn Hoàn vừa là thày học Chúa trước, vừa là bố vợ Nguyễn-Kiêm, tâm-địa cũng khá, có thể tin được, mà lại là bậc lão-nho có nhiều mưu-trí, có thể cùng bàn mọi việc, Bà cụ bèn bảo Nguyễn-Kiêm một mặt dặn bọn quân-sĩ hãy chậm khởi-sự vài ngày, một mặt tự ra bàn với Nguyễn-Hoàn.

Quận Hoàn nói:

— Nếu chư-quân khởi-sự, thì sẽ gây ra nhiều việc lôi-thôi. Thánh mẫu muốn dỗ Quận Huy thật là phúc cho xã-tắc, tôi cũng không thể nghĩ được hơn thế. Nhưng xin Thánh-mẫu hạ chỉ dụ Quận-Huy, để tôi ở trong tán thành.

Kiêm đem lời ấy tâu với Thánh-mẫu, Thánh-mẫu tức-thì sai người bảo Quận-Huy rằng: « Chúa mới bị đau, trong nước hiện đương lo sợ, nghi ngờ. Tướng quân nếu cho xã-tắc là trọng, thì nên tạm cho quí-tử[6] nhiếp-chính; để yên lòng người. Chờ đến khi nào Chúa mới trưởng-thành, quí-tử sẽ lại trả lại chính quyền, lui về giữ đạo làm tôi. Tướng-quân nên đem ý đó bạch với Tuyên-phi và để quí tử nhận Tuyên-phi làm mẹ nuôi, nhận tướng-quân làm a bảo, mong rằng tướng-quân giúp cho. »

Quận-Huy đáp lại rằng:

« Lý tôi gửi lạy dưới cửa Thánh-mẫu. Thánh-mẫu đã lo đến việc lớn của xã-tắc, tôi đâu dám không vâng lời? Có điều việc đó không phải ý của tiên-vương, Lý tôi khi được tiên-vương gửi con bồ-côi, ngài đã dặn dò rất cặn kẽ. Nay tử-cung[7] còn quàn ở đây mà đã thay đổi mệnh ngài, lòng tôi nghĩ sao cho đang? Vậy xin việc đó hãy để rồi đây liệu tính. Huống-chi tiên-vương không còn con nào, chỉ có Chúa mới và quí-tử mà thôi. Nếu Chúa mới gánh vác không nổi, lần lượt chắc đến quí tử. Lúc đó, quí tử cứ việc đường-hoàng mà lên, há chẳng hay hơn, cần gì phải vội làm việc trái thường như vậy? Vả chăng, kẻ lo lâu rồi họ sẽ hết lo, kẻ ngờ lâu rồi họ sẽ hết ngờ, dám xin Thánh-mẫu yên tâm... »

Người của Thánh-mẫu ra chưa khỏi cửa, Quận Huy hằn-học:

— Việc này dù có đánh chết, ta cũng không nghe.

Người ấy trở về thuật với Thánh-mẫu, Thánh-mẫu biết bụng Quận Huy không thể lay chuyển-bèn đem lời của Quận Huy bảo với Nguyễn Kiêm.

Vì sợ việc lộ, vạ lây, Kiêm lại đến bàn với bố vợ, quận Hoàn nói:

— Bây giờ việc đã như thế, đành mặc quân-sĩ họ muốn làm gì thì làm.

Tình-cờ có một tên lính ở xã Vạn-lộc, huyện Đông-sơn, đem các công-việc nói nhỏ với người cùng làng là viên Thiêm-tri Bình-phiên Trần hữu-Cầu. Sẵn tính hiếu-sự, lại giỏi làm văn, Cầu liền soạn một bài hịch đề là « tam-quân phù-chính », rồi đem dán ngầm ở các đường phố. Vì thế, kinh-kỳ mới càng nôn-nao.

Bọn Bằng-Vũ cho là thế không thể hoãn, họ bèn quyết đến ngày mai khởi-sự, không cần tâu với Thánh-mẫu. — Hôm đó là ngày 24 tháng 10 năm nhâm dần.

Quận Huy cũng biết sự-biến đã sắp xẩy ra, liền nói phô-sòng với bọn quan triều:

— Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có năm ba mạng đi theo.

Các quan đều nói;

— Lẽ nào lại có chuyện đó!

Quận-Huy bèn đưa ra một tờ khải, đại-ý nói là có người tố-cáo Quận Viêm đương định khởi-nghịch, rồi tiếp:

— Vậy xin các quan hãy nên tra xét, nếu là sự thật thì phải trị tội.

Bấy giờ trời đã sắp tối. Người nhà Quận Huy có kẻ khuyên ông ta nên ẵm Chúa mới đi trốn, rồi gọi quân ngoài vào bắt bọn giặc; có kẻ thì nhủ ông ta nên đưa nghĩa-sỹ vào phủ hộ vệ cho mình Quận Huy gạt đi mà rằng:

— Xưa nay thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc thật có việc đó. Dù có đi nữa, cứ để thong-thả rồi cũng tra ra, Chúng nó không thể trốn đi đằng nào. Ví bằng việc gấp quá, không thể trị nổi chúng nó thì ta đã vâng mệnh-lệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt-hoảng?

Đêm ấy Quận-Huy ngủ ở phủ-đường, cũng chỉ đem vài người hầu như lệ mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.

Sáng mai, cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đương sắp lui trào. Bằng-Vũ vào thẳng chỗ để dá trống trong phủ, lấy dùi thúc luôn ba hồi chín tiếng.

Các quan ngơ-ngác nhìn nhau. Quận Huy sai người đóng chặt cửa « các », bắt trói Bằng Vũ toan chém, Tạ Danh-Thùy can:

Kẻ bày mưu này không phải chỉ có một đứa. Nếu chém Bằng-Vũ đảng gian sẽ được « sổng vó ». Bất-nhược hãy giam nó lại, tra xét tới cùng, cho tịt hết những lời nói bậy.

Quận Huy cho là phải, bèn thôi không giết Bằng-Vũ.

Ở ngoài quân lính nghe thấy hiệu trống, hết thảy hăng-hái nhẩy múa. Tức-thì kẻ gươm người mác nhao-nhao kéo vào.

Bấy giờ các cửa đã đóng, quân-sĩ không thể vào được, họ cứ đứng ngoài quát tháo hò reo ầm-ầm, tưởng như trời long đất lở.

Quận Huy gọi Quận Châu ra quở:

— Cậu coi Binh-phiên, làm sao không biết mắng bảo chúng nó?

Quận Châu run sợ, dạ dạ mấy tiếng rồi ra.

Quận Huy tự làm tờ khải như sau này:

« Lý tôi kính tâu: Tôi được tiên-vương giao cho giúp đỡ Nhà Chúa. Nay đám ba quân nổi loạn, làm cho kinh-khuyết náo-động, tôi xin vâng lĩnh mệnh Chúa đem quân giết chúng. Nếu được, ấy là nhờ về oai-linh Nhà Chúa, nhược-bằng không được, tôi đành liều chết để xuống dưới âm-cung ra mắt tiên-vương ».

Viết xong Quận Huy đưa quan Xuất-nạp dâng trình và xin mượn thanh bảo-kiếm của Chúa để ra đánh giặc.

Dây lát, bảo-kiếm đệ ra. Quận Huy quì gối lĩnh nhận. Rồi lập-tức cưỡi voi ra trận.

Khi ấy Quận Châu đương đứng ở bức tường hoa xây trên con ngòi chạy trong cửa các, lên tiếng dụ bọn quân-lính rằng:

— Làm lính phải biết lễ-phép. Nay Tử-cung còn quàn ở đây, các người không được huyên-náo. Muốn nói điều gì, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ trình bày giúp cho.

Quân lính thét lớn;

— Cậu cũng định theo Quận Huy làm phản hay sao? Nếu cậu không mở ngay cửa, chúng tôi đục tường mà vào, xác cậu sẽ bị tan nát.

Quận Châu sợ quá, tức-thì trèo xuống ngỏ cửa. Quân lính chen vai xông vào.

Quận Huy cưỡi voi ra đứng giữa sân phủ-đường, giơ bảo-kiếm trỏ bọn quân-sĩ và quát:

— Bớ ba quân! Các người phải đâu về đấy, không được huyên-náo... ta sẽ lấy đầu tất cả!

Chư-quân vốn đã biết tay Quận Huy, lại thấy voi ra, ai nấy khiếp sợ, nem-nép ngồi xuống, không dám lên tiếng, cũng không ai dám xông vào.

Một lát, bao nhiêu người ngồi lại cùng nhao-nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi. Con voi vươn đầu ra húc. Quân-sĩ vì tránh ngà voi rầm-rập chạy quanh chân voi. Rồi thì kẻ giơ gươm chém, kẻ vác dáo đâm, nhiều kẻ lại bẩy gạch ở phủ đường, ném vào chân chan chát. Con voi co vòi mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, lại toan lấy súng nạp đạn, nhưng mà mồi lửa đã tắt. Chư-quân thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi người quản tượng xuống đất mà chém. Con voi bước lùi trở lại, quân-sĩ xúm đến vây kín chân voi. Quận Huy vội vớ mấy chiếc mũi lao lao xuống, trúng luôn vài người. Quân lính kéo đến càng đông, lại có một đoàn ở cửa Tuyên-vũ xông vào đứng chắn ở đằng sau voi, khiến cho con vật cứ phải đứng im không thể nhúc-nhích. Lúc ấy quân lính lại dùng câu-liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống. Rồi họ thi nhau ra sức đấm đá. Dây lát, Quận Huy tắt thở.

Quân-sĩ phanh bụng lấy gan ăn sống, còn xác thì lôi ra bỏ ngoài cửa Tuyên-vũ

Em ruột Quận Huy là Lý-vũ hầu Hoàng-Lương nghe tin có biến, vội-vàng chạy vào phủ-đường. Khi mới đi đến cửa chùa Báo-thiên, thì chư-quân quát phải đứng lại. Rồi họ cậy gạch trên đường, đập cho vỡ đầu và đem vất xác xuống hồ Thủy quân[8].

Anh em Quận Huy chết rồi, quân lính hò reo như sấm. Họ xông vào nhà Tả-xuyên để phò Trịnh Tông lên phủ-đường. Họ đội Tông lên vai, rồi họ đứng xúm chung quanh và hô:

— Xin ngồi cao thêm, để thiên hạ đều được trông thấy long-nhan, cho bõ lòng vui mừng của mọi người!

Trong lúc gấp-vội, không có kỷ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ « lộc » làm ghế, đặt Tông ngồi lên, rồi họ kề vai vào khiêng. Một lát, họ lại giơ tay nâng lên trên đầu, khi nào đầu mỏi lại hạ xuống vai, lúc nào vai mỏi lại nâng lên đầu. Lên lên xuống xuống, giống như người ta dỡn những quả cầu để bưng bụt đất (?). Mỗi lần Tông được nhô lên, quân-sĩ lại càng vỗ tay hoan-hô một hồi. Những kẻ buôn-bán ở các phố phường, chợ-búa, làng xóm, thi nhau kéo đến xem Chúa, sân phủ đông như cửa chợ.

Quận Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi mới khua chiêng thu quân, chừng độ hơn một trống canh mới dẹp được yên.

Trước đó mấy ngày, ngày nào trời cũng u-ám, hôm ấy tự-nhiên vẻ trời trong sáng, thiên-hạ thấy vậy đều cho là điềm thái-bình. Những kẻ đi lại trên đường đều hý-hửng nói: « Chúa ta lập rồi » Thế rồi người ta đua nhau mừng reo, kinh-kỳ phải nghỉ phiên chợ hôm đó.

Luôn đó triều-thần đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan dìu Tông lên ngôi. Xong cuộc lễ mừng, triều-thần mới đem đạo sắc nhà vua và tờ huy-chỉ của Thánh-mẫu dụ các quân-sĩ về việc lập Chúa, dán ở cửa Các. Chư-quân bèn đâu về đó.

Trong khi sự-biến xẩy ra, Thị-Huệ vô-cùng sợ hãi, nàng phải thay đổi quần áo nấp ở hậu-cung. Gia-thần của vị Chúa nhỏ cũng đều chạy trốn mất cả. Danh-Thùy phải bế vị Chúa tí hon lánh đi sở khác. Từ sáng đến tối; không có miếng gì vào mồm, Chúa cứ nheo-nhéo gào khóc. Danh-Thùy dọa rằng: « Không được khóc to. Hễ mà quân lính nghe tiếng, chúng nó kéo đến đánh chết ». Chúa cũng biết sợ, bèn thôi không dám khóc nữa.

Đến đêm, Thánh-mẫu sai người đi tìm Thị-Huệ và vị Chúa ấy về cung, để thay áo quần và cho ăn uống. Nhưng ngài sợ quá, không ăn được nữa.

Tông bèn treo giải hễ người nào chữa được cho Cán thì thưởng một trăm lạng vàng và phong cho làm tước hầu. Hôm sau, Tông bắt quan Tham-tụng Phan Lê-Phiên thay Cán làm một tờ khải xin lui xuống làm vương-đệ..

Việc đó đưa xuống triều-thần, các quan xin giáng phong Cán làm Cung-quốc-công. Cách mấy bữa sau thì Cán qua đời.

Chư-quân tuy đã giết cả anh em Quận Huy, cơn giận vẫn chưa nguôi. Những kẻ có công phò Tông, hết thẩy đến quì ở trước mặt Tông xin phá tất cả dinh của Quận Huy.

Tông ưng lời.

Chư-quân tức thì reo lớn:

« Quân cứ lệnh, lính cứ truyền, quyết đi phá-hủy cho hết. »

Chỉ trong chốc lát, dinh của Quận Huy không còn lấy một mảnh ngói. Thừa thế, chư-quân lại càng làm tràn. Trong bọn các quan văn vũ những người về bè Thị-Huệ, Quận Huy, những người dự việc tố-giác án năm Canh-tý[9], cùng những quan-thị mọi ngày có tính khắc-khổ mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy đều bị phá nhà. Họ còn lùng những người đó mà giết là khác. Luôn trong mấy ngày họ làm kinh thành náo động, Tông phải hạ lệnh ngăn cấm, họ vẫn không thôi.

Cùng quá, Tông mới sai người dò xét trong kinh, lén đến chỗ họ tụ họp, chọn lấy một người trong chợ đem chém, để ra oai. Bấy giờ việc phá nhà mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn chưa thôi hẳn.

  1. Mẹ già Sâm.
  2. Chỉ về Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út.
  3. Lịch Tây năm 1782.
  4. Tham-tụng tức là tể-tướng của Chúa Trịnh.
  5. Chỉ về quê hương vua-Chúa.
  6. Con út, chỉ về Tông.
  7. Tức quan-tài vua Chúa.
  8. Tức hồ Hoàn-kiếm bây giờ.
  9. Việc Tông mưu cướp chính-quyền.