Hạ tiệp - 賀捷
của Nguyễn Trãi

I - 其一

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

蠢尔蠻酋敢寇邊
積凶稔惡已多年
九重睿念憐遐俗
萬里鸞輿冒瘴煙
山戍已聞收魏博
宸奎又見刻燕然
從今四海車書一
盛德豐功萬古前

Xuẩn nhĩ man tù[1] cảm khẩu biên,
Tích hung nẫm ác dĩ đa niên.
Cửu trùng duệ niệm[2] lân hà tục ;
Vạn lý loan dư mạo chướng yên.
Sơn thú dĩ văn thu Ngụy-bác[3] ;
Thần khuê hựu kiến khắc Yên-nhiên[4].
Tòng kim tứ hải xa thư nhất[5] ;
Thịnh đức phong công vạn cổ tiền[6].

Bọn tù trưởng man ngu xuẩn kia sao dám quấy biên thùy ;
Chứa hung dồn ác đã nhiều năm lắm.
Lòng cửu trùng sáng suốt thương hại tục xa ;
Nên kiệu loan muôn dặm phải xông pha lam chướng.
Đã nghe quân thú miền núi thu được Ngụy-bác rồi;
Lại đã thấy chữ ngự khắc ở đá núi Yên-nhiên.
Từ nay bốn biển cỡ xe thể chữ đều theo một lối,
Đức thịnh công to hơn cả nghìn xưa.

II - 其二

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

奸臣賊子罪難容
到底終投憲網中
窮壤豈堪延喘息
大庭應已奏膚公
角聲萬里溪山月
旗腳千岩草木風
四海永清從此始
榑桑早辨掛天弓

Gian thần tặc tử tội nan dung ;
Đáo để chung đầu hiến võng trung.
Cùng nhưỡng khỉ kham diên suyễn tức,
Đại đình ưng dĩ tấu phu công[7].
Dốc thanh vạn lý khê sơn nguyệt ;
Kỳ cước thiên nham thảo mộc phong[8].
Tứ hải vĩnh thanh tòng thử thủy.
Phù tang tảo biện quải thiên cung[9].

Bọn tôi gian ác và con làm giặc khó dung tha.
Cuối cùng rồi cũng sa vào lưới pháp luật.
Đất cùng há còn để cho nó thoi thóp mãi !
Cho nên ở triều đình đã được tin công lớn (thắng trận) báo ra.
Tiếng tù và trên muôn dặm rung ánh trăng khe núi ;
Cán cờ gió lay cùng với cây cối khoảng nghìn non.
Bốn biển yên lặng mãi từ đây bắt đầu ;
Sớm đem treo cung trời ở cây phù tang.

III - 其三

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

聖朝柔遠憫昏愚
奈尔無知自殞軀
累世仇深憐鏡怨
欺天罪大鬼神誅
莫將前世扳今代
不作忠臣效逆囚
為報後來藩鎮者
征輪覆轍在前途

Thánh triều nhu viễn mẫn hôn ngu ;
Nại nhĩ vô tri tự vẫn khu.
Lũy thế cừu thâm lân cảnh oán ;
Khi thiên tội đại quỷ thần tru.
Mạc tương tiền thế phan kim đại[10] ;
Bất tác trung thần hiệu nghịch tù[11].
Vị báo hậu lai phiên trấn giả,
Chinh luân phúc triệt tại tiền đồ.

Thánh triều yên vổ người xa, thương hại kẻ ngu tối ;
Sao bay chẳng biết gì mà tự hại thân ?
Thù sâu bao nhiêu đời, khiến đất láng giềng oán ;
Dối trời là tội lớn, quỷ thần giết không tha.
Chớ có lấy việc đời trước mà vin vào đời nay ;
Không làm trung thần lại đi làm đứa phản nghịch.
Để bảo cho kẻ phiên trấn sau này biết,
Cái dấu xe đi xa đổ ở đường trước kia kìa.

IV - 其四

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

欺天罔上謂天高
天網恢恢更莫逃
戶外重山空設險
林間棲鳥不歸巢
蠻溪路遠紆鸞馭
玉帳謀深出虎韜
四海只今俱帖靜
預知後逸本先勞

Khi thiên võng thượng vị thiên cao.
Thiên võng khôi khôi cánh mạc đào.
Hộ ngoại trùng sơn không thiết hiểm ;
Lâm gian thê điểu bất quy sào.
Man khê lộ viễn vu loan ngự[12] ;
Ngọc trướng mưu thâm[13] xuất hổ thao[14].
Tứ hải chỉ kim câu thiếp tĩnh ;
Dự tri hậu dật bản tiên lao.

Dối trời lừa vua rồi bảo rằng trời cao !
Lưới trời lồng lộng càng không thể trốn.
Núi trùng điệp trước cửa đặt hiểm cũng không ăn thua !
Chim đậu trong rừng không về tổ được.
Khe man đường xa kiệu loan phải đi quanh lượn ;
Mưu sâu trong trướng ngọc trổ ra phép hổ thao.
Bốn biển từ nay yên ổn cả ;
Biết trước rằng muốn rỗi sau thì trước phải nhọc nhằn.

   




Chú thích

  1. Man tù: tù trưởng Man. Năm 1432, Lê Thái Tổ thân đi đánh người tù trưởng Thái ở Mường Lễ là Đèo Cát Hãn, thắng trận, Đèo Cát Hãn chạy trốn, nhà Lê lấy đất của Cát Hãn, đặt làm châu Phục Lễ, tức miền Lai Châu ngày nay
  2. Cửu trùng duệ niệm: lòng sáng suốt của nhà vua
  3. Ngụy Bác: Trấn Ngụy Bác do nhà Đường đặt ở khoảng huyện Đại Danh tỉnh Trực Lệ ngày nay, đặt chức Tiết độ sứ, sau Tiết độ sứ là Điền Duyệt phản, bị đánh bại. Đây là việc nhà Đường thu phục được trấn Ngụy Bác để ví với việc Lê Thái Tổ đánh được Đèo Cát Hãn lấy đất đặt châu Phục Lễ
  4. Yên Nhiên: Núi ở phía bắc tỉnh Ninh Hạ Trung Quốc. Đậu Hiến nhà Hậu Hán đánh đuổi Bắc Thiền vu đến núi ấy, lên núi khắc đá ghi công rồi trở về. Mượn điển này để ví việc Lê Thái Tổ đánh thắng Đèo Cát Hãn, làm một bài thơ khắc vào đá ở thượng lưu sông Đà tại Lai Châu để ghi công (Hoài lai cố bi), và một bài thơ khắc trên núi ở Thác Bờ (Hào tráng cố bi)
  5. Xa thư nhất: cỡ xe và thể chữ mọi địa phương đều theo một lối, tức là thống nhất. Lấy điển nhà Tần thống nhất sáu nước định trong sáu nước cỡ xe và thể chữ đều theo một lối, tức thống nhất văn hóa
  6. Vạn cổ tiền: nghĩa là hơn cả nghìn xưa
  7. Báo tin công lớn về triều đình
  8. Thảo mộc phong: chỉ cây cối gió lay cùng phấp phới với cờ xí
  9. Treo cung trời ở cây phù tang. Phù tang là thứ cây thần ở động tiên. Câu này chắc là dựa theo câu thơ của Nguyễn Tịch đời Tấn: « Long cung quải phù tang; Trường kiếm ý thiên ngoại », nghĩa là « Cung cong treo ở cây phù tang; Gươm dài đặt ở ngoài trời » (Bội văn vận phủ). Câu này có nghĩa là binh giáp được xếp nghỉ
  10. Đời Lý Trần thượng lưu sông Đà nước Ngưu Hống, thường hay câu kết với người Ai Lao xuống đánh phá miền biên thùy nước ta (đó là việc đời trước), đến đời Trần Hiến Tông nhà Trần mới dẹp yên mà lấy đất Ngưu Hống làm châu Mường Lễ
  11. Nghịch tù: nghĩa là kẻ bề tôi phản nghịch bị cầm tù
  12. Loan ngự: chỉ xa giá nhà vua
  13. Ngọc trướng mưu thâm: mưu sâu trong trướng ngọc, tức mưu sâu của nhà vua
  14. Hổ thao: một trong sáu phép dụng binh đời xưa của Trung Quốc, chép trong sách Lục thao