Hãy bỏ Triệu Đà và dòng dõi y ra ngoài Việt sử

Hãy bỏ Triệu Đà và dòng dõi y ra ngoài Việt sử  (1936) 
của Phan Khôi

Bài đăng trên Sông Hương, Huế, số 3 (15 Août 1936), trang 2.

Phá một cái lầm từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên cho đến Trần Trọng Kim

Sử: có thế giới sử, có quốc sử.

Quốc sử lấy gì làm nền.

Quốc sử là sử của một nước, chép những việc đã xảy ra trong nước ấy. Mà có người mới có việc. Những người của một nước họp lại thành một dân tộc; do những người ấy gây ra cuộc thành bại hưng vong trong nước mà mới có quốc sử. Thế thì không cần giảng giải thêm nữa cũng đã đủ hiểu rằng quốc sử phải lấy dân tộc làm nền.

Đó là một cái công lệ của sử học. Phàm nước nào đã có sử và trong nước đã có sử học đều phải tuân theo cái công lệ ấy. Nếu có nước nào nhận một người dân ngoại tộc vào nối lấy cái quốc thống của nước mình, ấy là điều điếm nhục cho lịch sử, cho cả học giới!

Trước đây sáu bảy trăm năm, nước Tàu có hai lần bị ngoại tộc đến chiếm trị. Hồ Nguyên và Mãn Thanh đều không phải con cháu Hoàng đế mà nghiễm nhiên xưng Thiên tử trên sử Trung Hoa, làm cho bọn chí sĩ nước Tàu thấy mà đau lòng, có người đã nhận cho là cái nhục lớn.

Tuy vậy, Hồ Nguyên và Mãn Thanh biên tập lịch sử của mình ngay từ lúc họ còn cường thịnh, họ có thần thiếp của họ, sai bảo làm gì mà chẳng làm. Điều ấy, nghĩ cho kỹ, cũng không đáng trách.

Duy có ở nước ta, cũng ở vào đồng một trường hợp ấy, mà sau khi kẻ cường quyền đã bị tiêu diệt rồi, chính người nước mình làm sử lại truy nhận cho kẻ giặc làm vua, mới đáng lấy làm lạ mà thôi!

Đó, tôi muốn nói về Triệu Đà, người đã nuốt nước Âu Lạc của chúng ta gồm vào bờ cõi mình, làm cho dân tộc ta từ đó về sau hơn một ngàn năm sa vào vòng nô lệ, mà rồi sau, bọn các ông Lê Văn Hưu, Võ Quỳnh, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thời Sĩ cho đến ông Trần Trọng Kim hiện giờ nữa, đều xưng cho là Vương, là Đế, để đứng đầu hàng vua chúa trên lịch sử nước Nam.

Mở sử Tàu ra mà coi, ở đó có chép rõ ràng Triệu Đà là người huyện Chân Định (đất Tàu), không hề có dính líu một tí nào với con cháu Rồng Tiên cả. Đà vốn làm quan lệnh ở Long Xuyên, là quan của nhà Tần, nhân nhà Tần có loạn, dấy lên cướp lấy nước ta mà độc lập. Như thế, đối với nhà Tần, Đà đã là phản thần, mà đối với nước ta, Đà cũng là cừu nhân mới phải; cớ sao lại tôn là vua của bản quốc và cho nối lấy nghiệp cả của mười tám Hùng Vương?

Nhưng mà, thảm hại thay! Cái việc thương luân bại lý ấy từ lúc pho sử Việt mới bắt đầu biên chép là đã có! Tôi muốn chỉ vào thuở nhà Trần, lần thứ nhất ông Lê Văn Hưu vâng mạng vua tu quốc sử, đã nhè khởi thủy từ Triệu Võ Vương, tức Triệu Đà, mà tôn cho là ông vua khai quốc của nước ta.

Kỳ thực, Triệu Đà cùng con cháu y không lấy nghĩa gì xưng là vua của nước Nam nầy được hết. Sử gia nước Nam tôn y làm ông vua khai quốc, ấy là đã làm một việc vô nghĩa.

Muốn rõ chỗ thị phi của cái sử tích ấy, ta nên xét xem cái đại thế nước ta và phía nam nước Tàu vào khoảng 200 năm trước Giáng sanh ra thế nào. Bấy giờ nước ta nguyên là nước Văn Lang của Hùng Vương, đã đổi tên là Âu Lạc, thuộc về Thục Phán làm vua cai trị. Còn hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây bây giờ, lúc đó là đất của mọi rợ ở, kêu bằng đất "Lục lương", nhà Tần mới đem người đến khai khẩn và đặt quan coi giữ. Triệu Đà tức là một viên quan của nhà Tần, ở trong cái phái bộ thực dân ấy, thừa bản quốc mình có loạn, bèn cử binh đánh Thục Phán, chiếm nước Âu Lạc rồi lên ngôi vua. Sự tình như thế, rõ là Triệu Đà làm phản nhà Tần, chiếm giữ chỗ đất mình đương làm quan nhảy lên làm vua, và gồm lấy luôn cả nước ta làm lãnh thổ. Nước ta khi ấy nên kể là đã mất mà mất vào tay Triệu Đà; còn cái nước Nam Việt của Triệu Đà mới dựng ở bên Quảng Đông thật không phải là nước ta. Thế thì, Triệu Đà cho đến dòng dõi y dù có làm vua đến mấy đời cũng mặc, người nước ta sao được nhận họ là vua của nước ta?

Nói cho ráo lẽ thì nước Văn Lang nên kể là đã mất từ đời Hùng Vương XVIII, vào tay Thục Phán. Vì ông nầy chẳng rõ hương quán ở đâu, hoặc giả là một người dân ngoại tộc cũng nên. Nhưng được cái đóng đô tại Loa Thành, đất Bắc Ninh ngày nay, An Dương Vương dấy lên giữa chúng ta, thì nhận đi là vua của nước ta cũng còn được. Chớ còn họ Triệu đã dấy lên giữa giống khác, lại đóng đô ở đất khác, tọa trấn tại thành Phiên Ngung, coi nước ta như một miếng thuộc địa, thì sao ta lại nhìn là vua trên quốc sử cho cam?

Cái lầm lớn như thế, mà từ các sử gia đời xưa, bọn ông Lê Văn Hưu cho đến ông Ngô Sĩ Liên cũng đều không thoát khỏi. Rất đỗi tới ông Trần Trọng Kim, một sử gia hiện đại, lẽ đáng không còn lầm nữa mới phải, vậy mà trong bản Việt Nam sử lược của ông, việc hưng vong của cha con ông cháu nhà họ Triệu cũng còn choán mất đến sáu trang! Nếu trong một nước mà khoa sử học đã thành ra một khoa học phổ thông thì đâu đến nỗi!...

Ấy là tại cái quan niệm sai lầm về lịch sử của người mình từ trước đến giờ vẫn còn chưa gột sạch. Lẩn quẩn trong cái quan niệm ấy, họ nhận vua tức là nước và có vua tức là có nước. Trong khi nước của Hùng Vương đã mất, họ tưởng nhận cho Triệu Đà làm vua là nước tức khắc còn ngay, cho nên họ sốt sắng mà nhận liền đi. Không ngờ đâu nhận như thế là trái với cái công lệ của sử học.

Hoặc có ai ngờ cho tôi sở dĩ có cái kiến giải nầy là tại quá trọng về quốc gia chủ nghĩa, và cũng bởi cái chủ nghĩa ấy khích thích nên tôi mới viết bài nầy. Nhưng tự tôi thì tôi không nhận có điều ấy. Không cần phải cầu viện tới quốc gia chủ nghĩa, tôi chỉ căn cứ vào sử học, nắm lấy hai chữ "quốc sử" cũng đủ hô lên xin đồng bào ta, kẻ giữ quyền sở hữu về pho Việt sử, từ nay hãy bỏ dòng vua nhà họ Triệu ra ngoài.

Sau họ Triệu, nước ta bị Bắc thuộc hơn một ngàn năm. Thế thì chúng ta có tiếc chi mà chẳng cho nó Bắc thuộc sớm đi và thêm lên 96 năm nữa, nghĩa là kể ngay từ lúc Âu Lạc vào tay họ Triệu? Mất đi mà sau lấy lại được thì cũng như không mất, hơn là cái nước kể cho là còn trong 96 năm ấy mà phải nhận một người thù làm vua.

PHAN KHÔI