Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ nhứt
GIA-LONG TẨU-QUỐC
QUYỂN THỨ NHỨT
HỒI THỨ NHỨT
Đức Nguyễn-Ánh lạc bước phong trần,[1]
Nơi phật tự gặp người phò tá.
Đất Việt ba kỳ, trời Nam một góc, tang thương mấy độ, cuộc hưng vong dường thể chim bao; sự tích ngàn xưa, gương trị loạn còn ghi lịch sử.
Trong khoãn cách chừng một trăm năm chục năm nay, nước Việt-nam ta ném nhằm lúc Triều-Lê vận mạt, chúa Nguyển thời suy, ngoài Bắc thì chúa Trịnh tranh quyền, trong Nam thì Tây-sơn dấy loạn, làm cho một giải đất nằm dọc theo mé biển Đông-dương nầy, từ sông Nhỉ-Hà tới Cữu-long-Giang, thành ra một xứ rần rần lửa giặc đao binh; sanh linh đồ thán, kẻ thì phải chịu mùa màng thất phát, người thì lại bị nghèo khổ linh đinh, nay chạy chổ nầy, mai trốn chổ khác, thảm khổ biết là dường nào!
Lúc bấy giờ, tại Cầnthơ có một ngôi nhà, ở gần mé Hậu-giang, tuy chẳng phải là nhà hào gia cự phú, song xem có vẻ thanh-lịch u nhàn, giửa nhà có để một bàn tròn, trên bàn có trãi một tấm khãm đõ, lại có ít quyển sử, truyện, thi, thơ, văn phòng tứ bửu, hai bên thì để một bộ trường kỷ, với ít cái đôn sành, còn chung quanh ngôi nhà, có một cãnh vườn, trồng đủ thứ cây trái bông hoa, trước sân có xây một hòn giã sơn, bên thì đễ ít chậu kim quít, thanh tùng; bên lại trồng ít bụi mai, lang, cúc trước, xem rất thú vị.
Ngoài vườn trồng một vuôn tre, bốn phía sùm sề, cây yêm lá rậm; nhà nầy là nhà của một ông quan hồi hưu, cất đễ dưởng nhàn, trong lúc tuổi cao tác yếu.
Trong một đêm kia, vào khoãn canh hai, trăng sáng lờ mờ, mưa tro rải rắc, đầu làng lặng lẻ, cúi xóm vắng tanh, chỉ nghe nhửng tiếng chó sủa ma, vẳn vẵn bên rừng, mèo kiếm bạn, ngao ngao xó bụi, dây lâu, bổng nghe xa xa, mỏ sải tụng kinh cốc cốc, thỉnh thoản lại nghe tiếng chuông nhà phật bon bon.
Cái tiếng mỏ tiếng chuông nầy, đối với người thường cãnh thường, thì nghe ra như nhắc nhở như khuyên răng; mà đối với người buồn cãnh buồn, lại nghe ra như thảm, như sầu, như than, như khóc. Ấy là:
Tiếng chuông sấm-hối răng trần-tục,
Giọng mỏ từ-bi tỉnh mộng hồn.
Thật là một cãnh đêm vắng canh khuya, xem rất yêm điềm buồn bực.
Lúc bấy giờ, trong nhà ấy có một người thanh-niên, trạc chừng mười tám tuổi, xem diện mạo tõ ra một người anh phong tuấn duật, cốt cách phi thường, sống mũi thẵng mà cao, tròng mắt long-lanh, hiện ra mấy ánh hào quang chói sáng, trán cao mày rậm, mặt trắng môi hồng, hình trạng chắc chắn khôi ngô, xem ra có vẻ anh hùng khí tượng, thật là một người tướng mạo đường hoàn, dung nghi tề chỉnh. Đầu bịt một khăn vàng, mình mặt một cái vỏ bào trắng, chưn mang một đôi võ hài đen, bên lưng đai một thanh gươm, vỏ bạc cáng vàng, dọi với bóng đèn, chói ra nhấp nhán. Người ấy đương ngồi dựa bàn, chống tay bên má, sắc mặt có vẻ âu sầu, ngó chăm chăm xuống đất, dường như đương trầm tư nghỉ nghị đều chi trong trí vậy.
Phía một bên, lại có một nàng tuổi vừa hai chín, hai môi đỏ hồng như màu yên chi, nước da trắng tươi như bông bạch phấn. Xem ra có cách yểu điệu thanh bai, thật là một người thục nử giai nhơn, trâm anh đài các, đương ngồi mắt ngó lơ là ra cữa, lẵng lặng làm thinh. Tợ hồ có việc chi nghỉ ngợi trong lòng, tràng ra một vẻ sầu dung, làm cho màu hoa giã dượi.
Chính giữa, lại có một người đàn bà tuổi chừng năm mươi, sắc mặt cũng có vẻ âu sầu thảm đạm, tay cầm một vuôn khăn lụa trắng, đương chậm lâu nước mắt, rồi cũng lẵng lặng không nói đều chi, một lát bà ấy day lại ngó người thanh-niên kia mà nói rằng:
Con ôi! thảm khổ là dường nào đó con, chú con và em con đã bị tay quân nghịch giết rồi, và cái cơ đồ cũa tổ phụ ta sáng tạo mấy đời, nay cũng bị chúng nó chiếm đoạt hết cả, làm cho mẹ con ta ngày nay phải ra thân lưu lạc phong trần, ăn sầu uống thảm. Con ôi! cái thù nầy là thù chẳng đội trời chung, biết chừng nào trông mong trả đặng? mẹ nghỉ chừng nào lại càng đứt ruột đau lòng lắm con!! Nói rồi lại rưng rưng hai hàng giọt lệ.
Người thanh niên kia nghe rồi, day lại vòng tay thưa rằng: Thưa lịnh mẹ, người đời có lúc thạnh suy, mà cũng có khi bỉ thời, ấy là lẽ thường, xin lịnh mẹ tịnh dưởng tâm thần, bớt lòng phiền muộn, để mặc con ra sức lo toan, họa may trời có lòng thương, thì ngày kia cũng được thiên tùng nhơn nguyện.
Kế đó nàng gái ngồi bên kia cũng lau nước mắt rồi day lại thưa rằng:
Mẹ ôi! thật nghĩ lại cái cảnh ngộ cực khổ gian nan ngày nay thì biết bao là buồn thảm! Khi nào thì lầu son các tía, gấm phủ màng che, còn bây giờ sao lại chải gió dầm mưa, ăn nhờ ở đậu, cực khổ cho mẹ con ta biết là dường nào? Nghĩ mà câm hờn nuốt giận, tiếm ruột bầm gan với đứa nghịch thù, không bao giờ nguôi đặng Rồi day lại ngó người thanh niên mà nói tiếp rằng:
Phu-quân ôi! thiếp nghe rằng quân nghịch sai người mật thám, rải khắp các nơi, đặng tìm kiếm chúng ta mà giết cho tuyệt kỳ hậu hoạn. Vậy thì chổ nầy là chổ chúng ta tạm đở vậy thôi, nếu ở đây trì huởn lâu ngày, thì thiếp e sớm muộn cũng chẳng khỏi vào tay quân nghịch.
Vậy xin phu-quân lo liệu thế nào, đặng mau mau tìm phương lánh nạn thì mới được.
Người thanh-niên kia nghe rồi gặt đầu và đáp rằng:
— Nàng hảy yên tâm, sự ấy ta đã lo liệu trước rồi, không sao phòng ngại, khuya nay chừng lối canh tư, chúng ta sẽ tìm qua xứ khác mà trú ngụ; nói rồi, kế thấy hai người mặc đồ đen ngoài cửa hăm hở bước vô, mổi người đều mặt vỏ phục gọn gàn, và bên lưng mang một cây gươm trường, tay cầm một ngọn roi ngựa, bước ngay tới trước người thanh-niên, rồi cung tay cúi đầu thi lể.
Người thanh-niên nầy nghiêm sắc mặt và hỏi rằng:
— Hai ngươi có việc chi cẩn cấp, hãy nói mau đi.
Một người kia bước tới bẫm rằng: Bẩm lịnh bà và điện-hạ, có quân giặc gần tới.
Người thanh-niên kia nhiếu mày, đứng dậy cách lẹ làn rồi hỏi:
— Quân nghịch đã tới đâu?
— Thưa, đã tới địa phận rạch mân-thít.
— Quả thật thế chăng?
— Thưa quản thật như thế.
— Quân nghịch nhiều ít thế nào?
— Thưa độ chừng vài đội binh bộ.
Người thanh-niên đứng sững, ngẩm nghỉ trong trí một chút rồi hỏi rằng:
— Quân tuần phòng của ta ở đâu?
— Thưa ở hai bên mé sông Hậu-giang.
— Chỉ có thế mà thôi sao?
— Thưa còn một đội tuần phòng theo mé Cù-lao-mây, và một đội phân ra từng khoản mà tuần phòng từ rạch Trà-ôn, tới rạch mân-thít.
Người thanh-niên hỏi: người có nghe quân nghịch ở đâu nửa chăng? — người kia trả lời rằng: thưa không nghe.
Người thanh-niên nhiếu mày nhướng mắt ngó chăm chăm người ấy mà rằng:
Thuyền của quân nghịch đã vào cữa biển Định-an hôm qua, bây giờ nó đã tới cù-lao Đại-ngải, người có nghe chưa?
Người ấy ra vẽ lính quính rồi trả lời ngập ngừng rằng:
— Thưa tôi chưa — chưa nghe.
Người thanh niên lấy tay khoát ra một cái, tên kia lật đật đứng lại một bên rồi vòng tay, còn mắt thì châm-châm xuống đất.
Kế đó người thanh niên day qua ngó người đứng bên kia và hỏi rằng:
— Quân tuần phòng trên bộ của ta ở đâu?
— Thưa quân tuần phòng của ta đương ở nơi mé rừng tràm, đường vô Rạchgiá.
— Còn đâu nữa không?
— Thưa còn một toán quân, phân ra mỗi tốp là mười đứa, đặng đi tuần phòng các nẻo lộ khác.
— Người thanh niên nầy nghe rồi nghĩ nghị một chút và nói với hai người ấy rằng:
— Hai người hảy lo sắp đặt hành trang và ngựa voi cho sẵn, khuya nay chừng đầu canh tư, chúng ta sẻ qua Rạchgiá, nói rồi lấy tay khoát hai người ấy ra, rồi bước vào hậu đường với hai người đàn bà khi nãy.
Người thanh niên mặt vỏ bào trắng nói trên đấy là ai? nãy giờ tôi chưa chỉ danh, vậy xin tỏ ra dưới đây cho khán quan rỏ biết.
Người nầy là người có một tánh chất nhẩn-nại tinh thần[2], và có một lá gan anh hùng khí phách; cái tánh chất ấy với cái lá gan ấy, thật là mịnh như vàng, cứng như đá, mà cũng dẻo như sắt, chắc như đồng, trong hai mươi lăm nhăm, tẩu bắc bôn nam, vào sanh ra tử, xông tên đột pháo, giửa chổ kịch liệt chiến trường, khi thì vượt biển, lúc thì trèo non, khi nằm sương, lúc gối tuyết, gặp nhiều cảnh ngộ rất nguy hiểm gian nan, biết bao là thiên lao vạn khổ, nhưng chẳng hề rúng chí nguôi lòng, chỉ lo khăn khắn một trái tim địch-khái[3], rèn đúc một khối óc phục-thù: mà đối địch với quân giặc Tây-sơn, hơn mấy mươi trận rất hoanh-hoanh liệt-liệt, làm cho một nước Việt nam nầy từ bắc chí nam, động đất long trời, xiêu thành sập lũy.
Người nầy tên là Nguyễn-Ánh là một người nhành vàng lá ngọc trong giòng chúa Nguyễn thuở Triều-Lê. Sau người tức vị hiệu là Gia-long. Ấy là một người thống nhứt san hà, trung hưng phục nghiệp cho nhà Nguyễn, gọi là Việt-nam Hoàng-đế.
Nguyên Đức Nguyển-Ánh là cháu ruột của vua Duệ-Tôn, kêu vua Duệ-Tôn bằng chú, khi vua Duệ-Tôn thất thủ Kinh-đô Huế rồi, chạy vô Nam-kỳ, đồn binh lập trại tại sông Bến-nghé (Saigon) chẳng dè vua Tây-sơn là Nguyển-Nhạc, đem binh rược theo. Vua Duệ-Tôn đánh không lại, liền chạy xuống Cà-mau đào nạn, nhưng chẳng bao lâu, lại bị quân Tây-sơn bắt đặng, dẫn về Saigon, rồi đem ra pháp tràng mà xử tử,[4] Sau lại bắt đặng con vua Duệ-Tôn là ông hoàng Mục-Vương tại Bến-tre, rồi cũng giết chết, vì vậy Đức Nguyển-Ánh nầy chính là người được trọn quyền nối nghiệp cho vua Duệ-Tôn và chính là một người đại nghịch đại thù với quân Tây-sơn Nguyển-Nhạc.
Bởi cớ ấy, nên quân Tây-sơn đem binh truy tầm tứ hướng, kiếm bắt cho được Nguyển-Ánh, đặng giết luôn cho tuyệt kỳ hậu hoạn.
Nhưng Đức Nguyển Ánh tuổi tuy còn nhỏ, mà cang đởm rất to, đả sẳn trí thức thông minh, lại có mưu mô đỡm lược, và nhờ có nhiều kẻ bộ hạ phúc tâm, thãy đều là người trung thành vỏ dỏng, nên mới thoát khỏi quân giặc Tây-sơn, rồi dắt mẹ và vợ chạy xuống Cần-thơ, mà tá túc nơi nhà của một ông quan hồi hưu, ở dựa mé sông Hậu-giang, (Bassac) như lời tôi đã nói trong khoãn trước kia vậy, đây xin tiếp theo.
Khi Đức Nguyễn-Ánh trở vào hậu đường, đương ngồi bàn mưu tính kế với Vương-mẩu và vợ là Tống-thị-phu-nhơn. Xãy nghe canh gà gáy thúc trống đã sang tư, kế nghe có người gỏ cữa nơi trước khách đường, Đức Nguyển-Ánh bèn lật đật bước ra thấy một tướng bước tới cung tay cúi đầu rồi bẫm rằng:
— Bẫm Điện-Hạ, đã bước đầu canh tư rồi, xin Điện-Hạ sắm sửa đặng lên đường cho sớm.
Đức Nguyễn-Ánh gặt đầu và hỏi rằng:
— Các quan binh đã tề tựu đủ chưa?
— Bẩm đã tề tựu đủ rồi, đương chờ nơi lộ mà tiếp nghinh Điện-Hạ.
Đức Nguyển-Ánh gặt đầu và khoát tay một cái, tướng ấy liền cúi đầu rồi lui ra.
Một lát đã thấy Vương-mẩu và phu-nhơn cùng Đức Nguyển-Ánh với em gái ngài là Ngọc-du-công-chúa, cã thảy cung-quyến thỉnh thoản, trong nhà đi ra.
Khi ra tới ngoài ngỏ; thấy một đội quân đã rút gươm dàng hầu hai bên mé đường, và các tướng tâm phúc đều bước tới cúi đầu chào ngài cách nghiêm trang cung kỉnh.
Kế đó thấy tên quân dắt tới một con ngựa sắc hồng, xem rất hùng tráng, và hai con Bạch-tượng (voi trắng) rất to, trên lưng đều có bắt bành sẵn sàng tử tế, đó rồi Vương-mẩu với phu-nhơn và công-chúa đều lên lưng ngồi trên bành voi, còn ngài và các tướng cởi ngựa heo sau, rồi kéo nhau lên đường đi vô Rạch-giá, quanh qua lộn lại, ước được hồi lâu, khi đi ngang qua một đám tràm lớn kia, ngó ra chỉ thấy bờ bụi lờ mờ, bốn phía đều rừng hoang cỏ rậm, vương hú dơi reo, thật là một chổ sầm huất quạnh hiu, khỉ ho cò gáy.
Đức Nguyễn-Ánh liền gò cương ngừng ngựa, rồi lấy tay chỉ vào rừng ấy mà hõi các tướng tùy tùng rằng:
— Các ngươi có biết trong đám rừng nầy, có nhửng giống chi dử chăng?
Một tướng kia bước tới đáp rằng:
— Bẩm Điện-Hạ, loại độc trùng ác thú cũng nhiều mà nhứt là cọp hùm thì dử lắm.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nồi mỉn cười mà nói rằng: Còn một giống nữa rất dử hơn, ngươi có thấy chăng?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi chưa thấy, và chẵng biết giống chi mà Điện-Hạ gọi rằng dử hơn.
— Ừ, ngươi chưa thấy à, vậy đễ ta chỉ cho ngươi xem, nói rồi thò tay vào túi áo, lấy ra một cái chi nho nhõ, dài chừng hai gang, rồi đễ nơi miệng thổi lên tiếng, kêu te te....
Kế nghe hai bên rừng, nhửng tiếng rào rạo, lào xào như tiếng lá khô, tức thì ngó ra phía trước, đã thấy một toán quân trong rừng rần rần nhảy ra lẹ như nháy mắt, mỗi người đều cầm giáo mang gươm, lưng đai cung tiển, đứng dọc theo hai bên đường rừng, coi bộ tề chỉnh oai nghi, và mỗi người đều hầm hầm sát khí.
Các tướng tùy tùng ai nấy xem coi, thảy đều kinh dị. Đức Nguyển-Ánh bèn lấy tay chỉ toán quân đó mà nói với người ấy rằng:
— Cái giống đó mới là dử hơn giống cọp hùm của nhà ngươi khi nảy, nói rồi ngài lấy cái kèn thổi lên hai tiếng, tức thì toán quân ấy liền rút vô rừng, không còn thấy một dạng người nào, thắp thoán ngoài mé lộ nữa. Ấy là một toán binh của ngài đễ phòng hờ dọc đường, đặng ngăn ngừa quân giặc.
Lúc bấy giờ Đức Nguyễn-Ánh và các tướng kéo đi ước đặng mười dậm, bổng thấy nơi khoãn trống kia, đã ló lên một vừng thái duwong, đõ lòm rực rỡ, như một lò lửa hừng hực ở góc trời đông, rồi phóng xạ hồng quang trên mấy ngọn cây, xem ra nửa trắng nửa xanh, chừng ấy nhửng bóng tối tâm mờ mịt, rủ nhau lần lần mất đi, và cây cỏ non sông thảy đều hiện ra một cãnh tượng đẹp xinh sáng suốt.
Đi đặng một đổi, bổng thấy ẩn ẫn trong lùm cây, ló lên mấy cái tháp Hòa-thượng rất cao, chừng lại gần thì có một cãnh chùa phật nguy nga rộng rãi, cất trên một gò đất, chung quanh có cây cao bóng mát, xem ra rất tịch mịt u nhàn.
Đức Nguyễn-Ánh liền bão các tướng ngừng ngựa lại nghỉ, đặng cho quân lính cơm nước rồi sẻ đi, còn ngài và cung quyến với các tướng tùy tùng đều dắt nhau vào chùa, khi vô gần tới cửa chùa, thấy một vị Hòa-thượng với ít tên đạo chúng bước ra tiếp rước cách kính nhường tôn trọng, rồi hối các đạo chúng quạt nước pha trà, đãi đằng tử tế.
Kế đó Hòa-thượng lại đứng một bên, chấp tay cúi đầu và hỏi đức Nguyển-Ánh:
— Bẩm quới quan, xin miển chấp cho chúng tôi là kẽ tu hành, bấy lâu giữ đao từ bi, náu nương cửa phật, ỡ chốn thâm lâm cùng cốc, nay đặng quới nhân và liệt vị giá lâm đến đây, thật rất vinh-hạnh, nhưng chưa rỏ tôn tánh quí danh là ai, xin quới quan vui lòng nói cho kẻ bần tăng rỏ biết.
Đức Nguyễn-Ánh nghe hỏi liền đáp rằng:
— Ta là kẽ nối nghiệp cho chúa Nguyễn vua Duệ-Tôn, bị quân Tây-sơn dấy loạn, soán đoạt cơ đồ, lại còn bắt vua Duệ-Tôn là chú ruột ta và ông hoàng Mục-vương mà giết hết, nên ta phải tìm phương lánh nạn, đặng lo chiêu nạp nhơn tài, ngỏ được ngày sau khôi phục cơ đồ, trừ quân nghịch thù mà rữa hận.
Hòa-thượng nghe nói liền lấy cập kiến con mắt mang lên, va ngước mặt nhìn Đức Nguyễn-Ánh châm chỉ, rồi cúi xuống lặng nghỉ một hồi và nói rằng:
— Bẩm quới quan, vậy thì quới quan phải là cháu nội vua Vỏ-vương Nguyễn-phước-Hượt và là con của Đức Hoàng-Hưng-Tổ phải chăng?
— Chính là ta đây, mà sao Hòa-thượng biết đặng?
— Bẩm Điện-Hạ, khi còn trai tráng, tôi có ở tại kinh đô Huế, làm chức Vệ húy trong nội các, nên biết đặng đức Hoàng-thân của ngài.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì nhìn sững ông ấy và hỏi tiếp rằng:
— Rồi cớ sao, ông lại vào đây mà làm Hòa thượng?
— Bẩm Điện-Hạ, nhơn sau tôi có bịnh, nên xin hồi hưu, rồi tôi và cháu tôi vào Nam-kỳ, lập cãnh chùa nầy, đả hơn hai mươi năm nay, sau đây mới nghe quân Tây-sơn vào Nam-kỳ bắt vua Duệ-Tôn và ông hoàng Mục-Vương mà giết hết, nói tới đây thì lấy khăn chặm nước mắt, và sắc mặt thãm buồn, rồi nói tiếp rằng: mới đây lại nghe quân Tây-sơn đem binh truy tầm tứ hướng, kiếm bắt Điện-Hạ, chẳng dè nay gặp Điện-Hạ đến đây, làm cho tôi được thấy tôn nhan, thì biết bao là hân hạnh.
Đức Nguyễn-Ánh nghe Hòa-thượng nói mấy lời, cũng cãm động tâm thần, rồi day lại hỏi rằng:
— Hòa-thượng nói rằng, khi trước vào đây với một người cháu, mà người cháu ấy bây giờ ở đâu?
— Bẩm Điện Hạ, bấy lâu nó ở bên Xiêm-La, khi Xiêm-La đem binh đánh nước Miến-Điện (Birmanie) nó có xin theo tùng chinh với binh Xiêm mấy trận, vua Xiêm thấy nó vỏ dỏng thông minh, nên cho nó làm một chức quan nho nhỏ, như chức quản vệ của ta vậy. Kế nó nghe nước nhà hữu sự, dấy động cang qua, nên lật đật bôn tẩu về đây, đương tính chiêu mộ anh em, quyết ra ứng nghĩa.
Đức Nguyễn-Ánh nghe nói thì sắc mặt có vẻ hân hoan, rồi hỏi rằng:
— Vậy xin Hòa-thượng bảo người ấy ra đây cho tôi biết mặt, nói vừa dứt lời, bổng thấy một người ngoài cữa bước vô, ước chừng hai mươi mấy tuổi, tướng mạo khôi ngô, hình dung tráng kiện
Ông Hòa thượng thấy liền kêu tên ấy lại và bảo rằng:
— Cháu hãy lại ra mắt Điện-Hạ đây đi, Điện-Hạ đây là người kế nghiệp cho chúa Nguyễn Đức Duệ-Tôn.
Tên ấy lật đật bước lại, cúi đầu làm lễ, rồi đứng ra một bên, liếc mắt nhìn Đức Nguyễn-Ánh, còn Đức Nguyễn-Ánh cũng ngó người ấy châm chỉ và hỏi rằng:
— Tráng-sỉ quí danh là chi?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi tên gọi là Nguyễn-hữu-Thoại.
— Ta nghe Hòa-thượng nói ngươi có đi tùng chinh theo binh Xiêm-La phải chăng?
— Bẩm Điện-Hạ, tôi có đi tùng chinh theo binh Xiêm ba năm.
— Vậy thì nhà người chắc là thông thuộc binh tình địa thế của Xiêm nhiều lắm phải chăng?
— Bẩm tôi cũng thông thuộc một ít.
— Vậy ngươi hảy vui lòng theo ta, mà giúp đở nước nhà, trong cơn hoạn nạn, đặng ráng sức dẹp loạn phò nguy cùng ta, mai sau may đặng khôi phục cơ đồ, thì cái công nghiệp của tráng-sỉ cũng được chép ghi thanh sử, và tiếng để ngàn thu, như vậy đã chẳng mai một cái tài danh của người, mà lại được vinh diệu với nước non tổ quốc.
Nguyễn-hữu-Thoại nghe Đức Nguyễn-Ánh nói vậy, lòng rất vui mừng, rồi trả lời rằng:
— Nếu Điện-Hạ có lòng cố cập, thì hạ thần sẽ hết sức theo Điện-Hạ mà giúp đở tay chơn, dầu vạng khổ thiên lao, cũng chẳng nài khó nhọc.
Ông Hòa-thượng nghe cháu nói như vậy thì rất vui lòng, rồi lấy lời mà khuyên rằng:
— Cháu có nhớ sách xưa nói rằng: « Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần, » nghỉa là nhà nghèo mới biết con thảo; nước loạn mới rỏ tôi ngay, vậy thì lúc bây giờ đây chính là lúc nước loạn nhà nghiên, thành tang lủy sập, vậy cháu ráng ra mà tế khổn phò nguy, đặng cho khỏi hổ phận nam nhi thần tử.
Nguyễn-hửu-Thoại nghe chú khuyên bão mấy lời, thì ghi để vào lòng, rồi sắm sửa y phục hành trang, và từ giả chú, theo đức Nguyển-Ánh mà phò tá.
Nói rồi thấy dọn một tiệc cơm chay, Hòa-thượng liền lại mời đức Nguyễn-Ánh cùng cung quyến ngài với các tướng sỉ ngồi lại ăn uống xong rồi, bèn giã từ Hòa-thượng, kéo nhau lên đường thẵng qua Rạchgiá.
Chú thích
- ▲ Đây kể từ khoản Nguyễn-Ánh (sau xưng hiệu là Gia-Long) ra kế nghiệp cho vua Duệ-Tôn trong năm 1775 tới bây giờ thì 154 năm.
- ▲ Nhẩn nại tinh thần, là có một tinh thần rất chịu đựng bền bỉ.
- ▲ địch khái là chống cự đánh giặc.
- ▲ Vua Duệ-Tôn bị giết nhằm tháng 9 năm Đinh-Dậu (1777).