VĂN TẾ VONG HỒN MỘ NGHIA

Tự đức thập tứ niên, thập nhứt ngoạt, thập ngũ ngựt chi dạ, thống quán (Bùi-quang-Mỗ) suất tương nghĩa binh tựu Cần-giộc công phá dương huyện, thiêu đắc dương di đạo đường, đạo quán, thích trúng dương quan tri huyện, tịnh Chà-và Maní đẳng, nghĩa binh trận vong, cai thập ngũ danh, kỳ tú tài Nguyễn-đình-Chiểu; phụ tế văn:


Sùng giặc đảt rền, lòng dân trời tỏ: Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao.
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mỏ.
Nhớ linh xưa!
Cui cút làm ăn, riêng lo nghèo khó:
Chưa quen cung ngựa, đua tới trường nhung,
Chĩn biết ruộng trâu, ở theo làng hộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thơ đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu,
Hai vầng nhựt nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen nầy xin ra sức đoạn kình,
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến nầy dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh,
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám bang vỏ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thơ, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỏ.
Hoa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ.
Chí nhọc quan quản gióng trống kỳ, trông giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cữa xông vào liều mình như chẳng có.

Kẻ đấm ngang, người chém ngược, làm cho Ma-tà, Ma-ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lủ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Những lăm lòng nghĩa sau dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ!
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay yên ngựa chở thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ qui, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần-giộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường-bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ bảo bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Những nghĩ rằng: tấc đất ngọn rau ơn chúa, tái bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm, manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính Ma-tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì. nghe càng thêm hổ.
Thả thác mà đặng câu dịch khái, về theo tỗ phụ cũng vinh;
Chẳng thà còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với Man-gi rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Chùa lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gởi lại bóng trăm rằm;
Đồn Tây-dương một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy mẹ già trông con trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Nào nồng thay vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế dật dờ trước ngỏ.
Ôi! Một trận khói tan; ngàn năm tiết rỏ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến nghé, làm cho bốn phía mây đen;

Ông cha ta còn ở đất Đồng-nai, ai cứu đặng một phương con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tĩnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miễu đễ thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã đành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ Thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bỡi một câu vương thổ.

Hỡi ôi! có linh xin hương:


CHUNG.