CA TRÙ

Ông Lưu-Bị đồn binh Tiểu-bái, thuở còn đương tướng quả binh vi. Ngộ Kỷ-linh thập vạn hùng sư, trì khu chiếm bên thành hạ trại. Lữ-phụng-công dùng mưu hòa giải, phân lưỡng chi xạ kích viên-môn. Cung khai như du nguyệt hành thiên. tiển phát tợ lưu tinh lạc địa. Tay cầm dắc Kỷ-linh, Lưu-bị, khuyên lưỡng gia tương giải binh nhung. So trong Tam-quốc anh hùng.


Trận Xích-bích, Tôn, Lưu hiệp lực, ông Khổng-minh dùng chước hô phong. Thất-tinh đàn huờn nhiễu tam trùng, châu vi rộng hai mươi bốn trượng. Họa giác, cang, đẩu, ngưu chi tượng, ngọn cờ bay trắng đỏ xanh vàng. Bày bửu kiếm giá trường can, sanh kỳ dữ qua mâu tế nhựt. Đùng đùng nổi đông phong gió dật, ngọn cờ bay phới phới đàn tiền. Thiệt là tài vỉ địa kinh thiên.


Đức Thánh-quan Hạ-bì thuở nọ, thấy Trương-liêu ra dụ hàn Tào. Đức Thánh-quan rằng có lời giao, Tào có khứng để cho ta nghĩ: Một là đừng lân la nơi đôi chị; Hai là ta hàn Hớn bất hàn Tào; Ba là nghe ông Huyền-đức ở nơi nao, dẫu ngàn dặm cũng tìm cho biết. Lời gắng vó đinh ninh chí quyết, chẳng nghe ta, ta cũng đụt xông. So trong Tam-quốc anh hùng.


Ông Châu-công thiệt là tài đại thánh, khi chầu hầu lưu phụ Thành-vương. Phải lời gièm đã bợn đuôi lang, chiếc tích lại dạo miền Đông-thổ. Cậy đã có lòng trời tây cố, mười lăm năm xiêm áo thung dung. Mới biết rằng thiên đạo chí công, tấm trung cũng động lòng nhụ tử. Trận phong lôi dở thơ thấy chữ, lại rước về phò lập vương gia. Ví dầu không trận phong ba, thiệt hư ai biết trung tà ai hay.


Tào-tháo xưa gian hùng đệ nhứt, lập Huỳnh-thành hổ thị Giang-đông. Bàng-sỉ-Nguơn mưu kế tranh hùng, toan gạt Tháo liên huờn cho thiện chiến, Đông phong bất dữ Châu-lang tiện, Đồng-tước xuân thâm tỏa nhị kiều. Chợt thấy tin thủy lảm điên thiêu, Châu-do mới thừa phong phóng hỏa. Sông Xích-bích đùng đùng trận lửa, Tào-a-man liệt đởm tồi can. Lòng trời dự kể khôn ngoan.


Tật phong hàn tuế phân kiên hủy, thời lảnh hồng mao đẳng trọng khinh; khá khen người chống vững cô thành, vì ân nặng phải lấy mình làm nhẹ. Cơn sảng sốt thong dong tùy mặt thế, song cũng liều tiết đá với gan vàng, miễu Tam-trung nghi ngút khói nhang, dấu thơm để làm gương thiên cổ. Nhơn sanh tự cổ thùy vô tữ, lưu đắc đơn tâm chiếu hạn thanh. Mượn lời xưa mà khuyên kẻ trung trinh, mầng thế đạo đã xây nên khí tiết; cuộc trời đất mở nền Nam-việt, đem tánh danh mà sánh với sắt son; nam nhi cuộc đã vuông tròn.


Trương-lưu-hầu là người Hàn công tử, nối năm đời chung đỉnh nước Hàn; tới chưng khi quấc bộ gian nan, niềm ưu ái chăm bề báo phục. Cơn xông đụt biết mấy lần gai gốc, tới Trần-lưu xảy gặp Lưu quân ; năm năm ba tấc lưỡi kinh luân, màn thao lược vì Tần khổn Hạn. Ơn Hán nợ Hàn trả vẹn, túi vương hầu treo gởi gánh Huỳnh-công; một mình lui tới thung dung.


Triệu-tử-luông nhứt thân đô thị đởm, trận Đương-dương thân bị trùng vi: thả hành thả chiến mã như phi, bảo Á-đẩu thủ trì tam xích kiếm. Tứ diện Tào binh thùy dữ Hán, trận tiền hà xứ thị ngô quân: trước Hạ-hầu-đôn sau Hạ-hầu-ân, một mình xông tên đụt pháo bấy nhiều lần, bảy mươi ba trận giao phong chẳng vướng. Tào lừng lẩy năm mươi bốn tướng, lung lăng về một mũi nhi đồng, cờ Thường-sơn ông Triệu-tử-luông, nhứt nhơn địch vạn, quân trung tướng tài; làm trai đã đáng nên trai.


Triều-lê-quí có bà liệt tiết, mười chín thu giữ một niềm tây, đam tàn dung mà nương chốn am mây, đạo thần tử tình trong phu phụ. Vạn cổ gi luân chiêu vỏ trụ, nhứt tâm trung nghĩa đối quân vương: lòng khăng khăng trải tấm thiết cang, chén tân khổ ngọt ngon mùi chánh khí; đã nên đứng trung thần bất nhị, lại khác bề liệt nữ bất canh! vững bền hai chữ trung trinh.


Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy khéo buồn cười; thôi công đâu chác lấy sự đời, tiêu khiển mượn một vài chung lếu láo. Vản tống nhứt sanh dy hữu tữu, tầm tư bách kế bất như nhàn; dưới giạu thưa thấp thoảng bóng nam san, ngảnh mặt lại cữu huờn xem cũng nhỏ, xáo trời đất cổ kiêm kiêm cổ, mảnh hình hài không có có không; lựa là thiên tứ vạn chung.


Nhứt đái Nhỉ-hà thiên cổ nguyệt, ngọn đông lưu xây mấy cuộc tang thương. Ngẫn ngơ thay người hoài cổ kẻ tư hương, nhắm thành thị lại trông miền thôn ủ. Hiu gió mát thuở lạc hà cô vụ, nhắn tin đưa chiều thu thủy trường thiên. Nhứt thinh Trâu địch cựu sơn xuyên, cảnh sao khéo tánh tình chi bấy tả: thuyền ai chật bên gành tợ lá, trở gió lò mát mẽ ngư ông, khác chăng Xích-bích tranh hùng, mơ màng bóng nguyệt, lạnh lùng như xưa.


Bắc nam duy sở mạng, trải mười lăm năm vui thú Lam quan; lũ kiến ong mấy lúc hiệp tan, cơn sóng gió ra tay buồm lái vững. Con tạo ghét ghen chi bấy dửng, anh hùng gặp gỡ những làm sao; hội phong vân tri cố biết dường bao, mình phút bỗng đành rằng nông nổi thế. Hỏi thơ kiếm mầy còn linh chăng nhẻ, nợ tang bồng trả đặng lúc nầy chăng; đố ai sửa lệch cho bằng.


So tài tình Túy-kiều đệ nhứt; tuyết thanh minh ra tảo mộ huình tuyền; bán tà dương viếng mã Đạm-tiên, dung vó ký xảy gặp chàng Kim-trọng. Năm canh tưởng giấc hòe thần mộng, số cô còn nhiều lúc phong ba; chợt tĩnh mê nghĩ nghị gần xa, năm canh những ủ ê chìu liễu yếu. Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu, bạc mạng cầm chung oán hận trường; đóa xuân hoa xảy gặp cuộc tang thương, kiếp má phấn để nên mình lưu lạc. Gẫm duyên số mười lăm năm chích mát, phận hồng nhan nhiều nỗi gian truân; Tiền đường ai khéo tạo nhân.


Nhơn sanh thiên địa nhứt nghịch lử; có bao nhiêu ba vạn sáu ngàn ngày: như thoi đưa, như bóng cữa, như tấc tay; sực nhớ chữ cổ nhơn bĩnh chúc, cao sơn lưu thủy thi thiên trục, minh nguyệt thanh phong tửu nhứt thuyền, người tài tử khách thần tiên; chén rượu thánh câu thi thần thích chí. Giang san ấy mà thành thị ấy, đâu chăng là tuyết nguyệt phong hoa; bốn mùa xuân lại thu qua.


Ba vạn sáu ngàn ngày thẩm thoát, từ mọc răng cho đến thuở bạc đầu, cái nhục vinh góp lại chữa bao lâu, ngồi thử nhắm thợ trời nên khéo quá; núi tự tại cớ sao sông bất xá; chim thì lông, huê thì kiến; khéo công đâu thừa trừ, từ ngằn trước nhẫn ngằn sau, kiết cuộc mỗi người riêng mỗi kiếp. Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp, xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân; mà chữ danh liền với chữ thân, thân đã có ắt danh âu phải có. Nầy phút chúc kiêm rồi lại cổ, có hẹn chi xưa chẳng bằng nay; râu mày kia hỡi râu mày.


Chẳng lưu lạc sao trải mùi đương thế, giữa trần ai khôn rõ mặt công hầu; ngất ngưỡng thay con tạo hóa khéo cơ cầu, nhấp nháng lại thẹn cho lúng túng. Thân hệ tang bồng chung hữu dụng, nhơn sanh hào kiệt nhứt vô ưu; hay gìn lòng đừng mảy chút oán vưu, thì vị chí ngư long biến hóa; ấy mới biết cùng thông là nghĩa cả, cũng đừng đem hình dịch ngoại cầu chi. Khác nhau chăng có một chữ thì, thiếu chi kỳ ngộ, thiếu gì lương duyên; linh đài một tấm tự nhiên.


Trải non nước xa trông ban tịch chiếu, bức phong vân ai khéo vẽ vời: dưới kim ô con bạch nhạn bóng lôi thôi; dòng bích lãng tiếng ngư ông ca dắng dỏi. Đầu lâm điểu sấn tà dương ngoại, thừa tịch ngư ca cổ độ đầu, gió trăng thanh xinh xoảng rượu lưng bầu; non nước biếc bẻ bai cầm mấy khúc. Nhàn đủng đỉnh xinh xang cây gậy trúc, giục thằng đồng xách túi càn khôn; thảnh thơi trong cõi trần huờn.


Minh quân lương tể tao phùng dị, tài tử giai nhơn tế ngộ nan; so tài tình nhứt phẩm trần gian, chàng Kim với nàng Kiều thuở nọ. Thương ôi nhẻ mành mành tơ đỏ, mười lăm năm đôi ngả sâm thương, người ngẩn ngơ nơi kim mả ngọc đường, kẻ ngao ngáng bước lầu xanh má phấn. Quân hữu hạp trung kính, thiếp hữu cầm thượng huyền, sầu phôi pha khi ngọn nước sông Tiền, duyên lạnh lẻo buổi ong già huê rụng; tơ Nguyệt lão xe nào có vụng, thử treo gương cho tài tử giai nhân; sắc tài ai kẻ cầm cân.


Tiếc những đứng văn nhơn tài tử, trót đa mang vì một chữ tình; nghĩ nguồn cơn thẹn với ông trời xanh, tưởng nông nỗi giận cùng vầng trăng bạc. Tương thức nhứt thinh song lụy lạc, khả lân bán điểm nét châu huyền; trách vì phận giận vì duyên, duyên phận những theo tình nên nông nỗi; dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối, thắt ruột tấm bối rối càng đau; tương tư nầy ai để cho nhau.


CA TRÙ CỔ THƠ

Bút hoa thảo vân tiên một bức, gởi đưa người tri thức đặng hay: gẫm từ gặp khách đàng mây, ước chừng cung quế xe dây xích thằng. Khúc Giang-lăng cong lòng cạnh cạnh, rắp tìm mai Thứu lảnh canh ba; nguyệt năm canh diển khách hằng nga, thi một lúc nhớ người hoài viễn: vườn lan uyển nhụy đào phong kiến, thơ gởi chim còn nể lòng chim; gành ngân giang sứ điệp cách trông, thơ nhắn cá còn e dạ cá, có thơ rằng:

Nỗi niềm can cớ bỡi vì ai.
Chích bóng gương loan lược biếng cài,
Đằng đằng một năm dài dặc dặc,
Thấu tình chăng hỡi khách chương đài.


CA TRÙ PHÚ CÁCH

Nhớ thuở Vĩnh-bình có chàng Lưu, Nguyễn; hai gã đồng tâm đồng điệu, một đoàn phi Thích phi Nho; trên đời thưa thớt mấy go, an lạc xóm lâm tuyền một góc: ngoài cõi thừa ưa hóng mát, thanh quang gành phong nguyệt đôi phường. Người Hi Hoàng bỏ khước nỗi ngày nhàn, sự Nghiêu Thuấn rửa tai dòng nước chảy. Án ngọc tụng pho thanh giãn, vượn tới nghe kinh; lò vàng luyện bánh linh đơn, hạc bay lánh khói. Thân thể đã xa mùi tục lụy, tinh thần như tới chốn huyền hư; gặp ngày đoan ngũ tiết lành, giăng tay cùng hái thuốc; vào chốn thiên thai non thẳm, lỡ gót bổng quên đàng; nếm quả đào đòi bữa dạ mê man, ngậm trái núi lại nhẹ mình thoát thoát. Ren rỏi sương vàng mây bạc, canh gà đâu nghe phưởng phất dạ trời, dần dà cội bích ngàn nhơn, vừng ô nọ nổi linh đinh mặt nước; vịnh mấy tiếng cội ngành chìu lăng líu, chực đôi nàng cữa động đứng song song, chìu dương liễu thiết tha, đón rước nỗi mầng mầng, thẹn thẹn; dạng phù dung tươi tốt, mầng rỡ bề lạ lạ, quen quen. Ba sanh sao khéo hẹn hò, một phút xảy nên lăng líu.


PHÚ VƯƠNG LĂNG.

Trời nam vặc vặc, nguyệt dải làu làu, bể đông nam kình ngạc khấu đầu, rừng tây bắc sài lang giấu vút. Nền vương bá vững an rường cột, nhà thôn dân chặt đóng chốt then. Sĩ chăm chăm kinh thánh truyện hiền, nông cạy cạy cày mây cuốc gió. Nhớ xưa tích cũ, Hớn Vương-lăng người đất Bái-trung, gặp phải thì Hán-Sở tranh hùng, Lăng chí dốc một lòng thờ Hán.


BÁ GI THÚC TỀ THƠ.

Danh chẳng tham, mà lợi chẳng mê,
Ấy gan hay sắt hỡi Gi, Tề.
Gặp xe vua Võ tay cầm lại.
Thấy thóc nhà Châu mặt ngảnh đi.
Cô-trước hồn về sương mịt mịt,
Thú-dương danh để đá tri tri.
Cầu nhơn chi đắc nhơn mà chớ,
Chẳng oán ai ai lại oán chi.


HÁT ĐẠI THẠCH.

Ngọc từ nghe tiếng vấn vi, thốt thôi lại nói bàn mi sự tình: hội nầy lừng lẩy dưới trên, vui nầy gặp hội thiên duyên dẫu lòng; ngọn cờ đảnh núi xa trông, no nao lan quế hiệp cùng trước mai; trách thay ô thước nỡ hoài, cớ chi sao bổng lạc lài chốn tiên.


HÁT HÁM CÁCH.

Tiếc xuân ngảnh lại trông xuân, thương ôi bóng đã vân vân xế chiều; linh đinh duyện nợ phận bèo, trốn làm sao khỏi nước triều nước vơi. Lâm dâm sủ với trên không, khứng rằng tương ngộ tương phùng cõi xa. Ngẫn ngơ đứng gốc mai già, hỏi thăm ông Nguyệt có nhà hay không.


Đêm qua chớp bễ mưa nguồn, hỏi người tri thức có buồn cùng chăng. Ngọn đèn tàn thấp thoảng bóng trăng, ai đem người ngọc xung xăng chốn nầy. Lộ đồ diêu viễn xa xuôi, thuyền tình chở một mình tôi nặng gì. Tuyết sương rụng lá từ bi, hằng nga lảng đảng chơn đi ngập ngừng.


Nước hồ tây lẽo lẽo như gương, tóc mây biếng chải mặt dường bể bai; thẫn thơ đứng dựa gốc mai, bụng tôi tôi biết, bụng ai tôi nhàm. Chánh phong hai chục năm thiên; Châu nam mười một, vốn truyền nẽo xưa; Hậu phi có đức quan thư, gia nhơn mầng thấy hứng thừa ngợi khen.


PHAN VINH CÁCH.

Vãn vân sực nhớ sự tình, hiu đòi mây nước rập rình nên quen; cơn thảo muội anh hùng mới tỏ, đất Bồ-châu dấu có vỉ nhơn.


Gió nam phong thổi động lá ngô, nghĩ non nước càng thêm buồn bả; sóng gập ghình mượn cơn gió cả, nhạn lơ thơ cách áng mây tuôn. Tới Võ-lăng đón hỏi chàng ngư, cảnh đào nguyên hãy còn bao nã, một con thuyền tiẻu đưa đôi ba ngã, biết rằng đâu biển ái nguồn ân, sông ngô sóng dậy tâng bầng.


Kìa ai chốn Long-trung cao ngọa, chẳng là người quê ở Lang gia: lều bạch mao đàng hãy còn xa, bàn bạc chia ba rồng thiên hạ. Lưu-Huyền-đức ba phen uổng giá, hủy kỳ thân hứa dữ trì khu; lên tây sơn lấy bức họa đồ, cẩm nang mới bày sang Ngô thị. Dốc kế tuyệt phò suy chi chí, bát trận đồ danh để tạc bia, ấy ông Gia-các khôn bì.


Xem Quốc-sắc-thiên hương thiệt lục, đứng sĩ nho có ngươi Võ-kì-sanh: đao kia trận, bút kia thành, hào huê khí hai vừng tinh đầu. Niềm xuân sắc ân cần nhứt mạo; thấy Châu-sanh mừng rỡ tương tư, nực mùi xạ bén hương đưa, trông mây tõ sự tình khế khoát: thanh giang mạc trắc vô tâm nguyệt, xuân hạn lưu liên đắc ý nhơn. Chàng Sanh từ chiếm bãng xuân, vinh qui bái tổ, động loan phòng quế hộ, ấy mới biết thiên duyên kỳ ngộ, dẫu gi huê gi thủy mà chi, đành thay quân tử cập thì.


Tật phong tri kĩnh thảo, bản đãng thức thành thần. So cổ kiêm mấy đứng trung quân, âu chưa dễ Trần-canh họ Lý: thung dung tựu nghĩa ư điên phái lưu lý chi tế; rắp ghé vai sửa lệch phò nghiêng; tuy nhơn mưu mạc thắng hồ thiên, phải tựu nghĩa cho đành lòng thần tiết. Trung hiếu nhẻ phô đồng nhựt nguyệt, chữ cang thường vạn cổ lưu danh; Nam-san họ Lý trần canh.


CÁCH HÁT VINH

Khá khen ông Lữ-vọng, chốn thạch bàn tuổi tác riêng ngồi: chỉ một cần vuối bóng trăng khôi, cá Vị-thủy luống trông mồi thao lược. Bổng chốc thấy năm mây dưới nước, bóng xe loan kề rước bên sông. Hội long vân ngư thủy lạc đồng, thỏa nhứt trận anh hùng cần trước; khắp bốn bể xa gần trong trược, tuổi tám mươi đảnh túc thừa quân, ra tay sửa túi kinh luân.


Chốn Na-sơn tiều phu nương ngụ, ngày ngày ra hoán tửu diệc tân, chốn yên hà vui thú dưỡng thân, kho phong nguyệt vốn hằng lưu loát. Khi nghỉ ngơi ngồi chơi hóng mát, bàn bạc xem cổ vãng kiêm lai, gỏ nhịp chơn miệng dảng ca thài, nghêu ngao thú lâm tuyền thong thả. Có chữ rằng: Nhiệm tha thành thị tha xa mả, tri trần bất đáo thử giang san, vân mịch mịch thủy san san, sĩ hữu chí nhiệm kỳ sở thích. Buồn thay nhẻ thú miền thôn tịch, sẳn nước khe gạo đổi củi rừng, tánh quen cuốc gió cày trăng.


Lý-thái-Bạch tài ưu học sĩ, vua ban cho đáo xứ hữu tiền: tửu nhứt đấu thi bách thiên, tài gồm cả cửu châu thiên bá, rồng đáy nuớc chờ ngày biến hóa, bãng vàng treo trên các đành rành; dạo bên màn thấy lủ thơ sanh, ngâm nga lại cho câu cẩm tú: dạ tịnh phất kham đề tuyệt cú, khủng kinh tinh đẩu lạc giang hàn, thì để thôi cất mái chèo ngang, lại về chốn tích lâm từ hạ. Thơ sanh mới biết tài gồm lạ, so trong đời dễ mấy ai tày; chăm lần trải gió nằm mây.


Huỳnh-công-cái dùng khổ nhục kế, sai ngươi Hám-trạch sang hiến trá hàn thơ, trót năm canh luống những đợi chờ, tam canh bán đồn binh thủy trại. Kẻ tuần du thấy thuyền bắt lại, để cho Tao cật vấn gian hung. Tào nhen nhen diện bất cải dung, cường trung ngộ cường trung thủ đoạn, ấy là chước hỏa công nhà Hán, dùng kế ra tại đấng quân sư, chữ rằng thiện độc binh thơ.


Nhơn sanh quí thích chí, tu phú quới hà vi; nhi kỳ nhi tửu nhi cầm nhi thi, thú lịch thú an bần tự lạc; an phận thân vô nhục, tri cơ tâm tự nhàn; mãng vui chơi tửu cúc thi đờn, năm cung gãy tiếng khoan tiếng nhặt, cụm nhụy đào gắn chặt, chồi đơn quế khoe tươi, một năm là mười hai tháng thảnh thơi, ba vạn sáu ngàn ngày thong thả. Chữ thích chí răng răng đã thỏa, mặc dầu ai xa mã thị thành, màng bao nẻo lợi đường danh.