Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Điệp tự thi cách
疊字詩格
Điệp tự thi cách

陳家第二代王曰聖王,既傳位世子,晚年頗間,適甞游天長故鄉,有詩云 :
景清幽物亦清幽,
一十仙洲此一洲。
百部笙歌禽百舌,
千行奴僕橘千頭。
月無事照人無事,
水有秋涵天有秋。
四海巳清塵巳浄,
今年游勝舊年游。

Trần gia đệ nhị đại vương viết Thánh Vương, ký truyền vị Thế tử, vãn niên phả nhàn. Thích thường du Thiên Trường cố hương, hữu thi vân
Cảnh thanh u vật diệc thanh u,
Nhất thập tiên châu thử nhất châu.
Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,
Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu.
Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự,
Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.
Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tĩnh,
Kim niên du thắng cựu niên du.[1]


此詩作時,蓋經元軍兩度征伐之後,國中安樂,故結意如此。其命意清高,疊字振響,非老于詩者,焉能道此?况自性淸高, 天然富貴, 國君風味與人自別矣。

Thử thi tác thì, cái kinh Nguyên quân lưỡng độ chinh phạt chi hậu, quốc trung an lạc, cố kết ý như thử. Kỳ mệnh ý thanh cao, điệp tự chấn hưởng, phi lão ư thi giả, yên năng đạo thử ? Huống tự tính thanh cao, thiên nhiên phú quí, quốc quân phong vị dữ nhân tự biệt hĩ.

Dịch nghĩa

sửa
Kiểu thơ điệp từ


Đời vua thứ hai nhà Trần là Thánh Vương, khi đã truyền ngôi cho Thế tử, những năm cuối đời rất nhàn. Nhân về chơi quê cũ Thiên Trường, có thơ rằng:

Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Một chục tiên châu, đây một châu.
Trăm bộ sênh ca, chim trăm giọng,
Nghìn hàng nô bộc, quất nghìn đầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng trời có thu.
Bốn biển đã trong, bụi đã lắng,
Năm nay chơi thắng cuộc năm xưa.

Thơ này làm ra, chắc sau khi trải qua hai lần chinh phạt của quân Nguyên, trong nước yên vui, nên ý câu kết mới vậy. Xem thơ này cấu tứ thanh cao, điệp tự gây nhiều âm hưởng, không phải già dặn về thơ, sao mà làm được ? Huống hồ tự tính thanh cao, vốn dòng phú quý, phong vị quốc quân với người thường vẫn tự khác biệt vậy.

   




Chú thích

  1. Đây là thi phẩm Hạnh Thiên Trường hành cung của vua Trần Thánh Tông