Bình Tây sát tả  (1874) 
của Trần Tấn, Đặng Như Mai

Theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Tháng giêng năm giáp-tuất (1874), là năm Tự-đức thứ 27, đất Nghệ-an có hai người tú-tài là Trần Tấn 陳 鑌 và Đặng như Mai 鄧 如 梅 hội-tập cả các văn-thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là « Bình tây sát tả », đại-lược nói rằng : « Triều-đình dẫu hòa với Tây mặc lòng, sĩ-phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo-dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn-hóa của ta đã hơn 1.000 năm nay, v. v. » Bọn Văn-thân cả thảy độ non ba nghìn người, kéo nhau đi đốt phá những làng có đạo.

Văn thân hịch tuyển sao ký
Tự Đức nhị thập thất niên nhị nguyệt sơ nhị nhật.
Cái văn: Thệ đồng cừu nhi bào trạch, ngô Nho địch khí chi hùng phong; tạm đầu bút nhi nhung nhiên, quân tử dụng quyền chi năng cử.
Nghĩa như năng vãng, Chung Quân do thả thỉnh anh; đạo hữu khả hành, Tổ Địch thượng văn kích tập.
Cái tang bồng hồ thỉ, nam tử sơ tâm; nhi nghĩa phủ nhân can, thiên hạ vô địch.
Thẩn tư Gia-tô nhập vu ngã quốc: Ngữ kỳ thuật, tắc xưng thiên xưng thánh, lủng ế ngu mông; ngữ kỳ giáo, tắc vô phụ vô quân, khuyển dương tộc loại.
Xả khúc trực dĩ ngôn cường nhược, mạn khoa bác khả phá sơn; ứng trung dũng nhi thiệp ba đào, lãng thuyết thuyền năng nhập thủy.
Tự Đinh Tị duyên biên vi hoạn, phong đản tứ kỳ xương cuồng; kinh nhung thần phấn lữ nhi tiền, thú dĩ thư kỳ cuồng phệ.
Phụng Hoàng thượng phấn nhiên canh đoạn, phương dục hữu vi; nại hà nhân tự nhĩ thâu an, cẩu cầu vô sự.
Tấn đại phu chi sách lập hỗ lợi nhi hại tùy; Tống tướng quốc chi mưu, kiếm nhất hoà nhi ngạnh khởi.
Toại sử Tây huynh Nam đệ, nhẫn cam thành hạ chi minh; giáp quyển nhung tàng, thùy phấn quân trung chi dũng.
Dẫn chiên cầu vu quốc ấp, kê thê phượng tập ngưu hỗn ký quần; nhập tinh xú vu bang đình, hổ bị khuyển khi, long vi hà hí.
Lục tỉnh chi thần dân hà tội, hàm oan nhi diện cách triều đình; nhất phương chi thủy hỏa thùy tô, tố khổ nhi thanh đằng vũ trụ.
Hạ xuân đài nhi đồ thán, sĩ dân cô hiệp đạo chi hoài; ly thiên nhật nhi âm hàn, phụ lão thất cử phan chi vọng.
Huống hựu: Trưởng ác bất thoan, vi hại thậm đại.
Sách tăng tuế tệ, dương tiêu bản quốc cao chi;
Sức yết đao đường, âm dụ ngã bang lê thứ.
Tư tạo ngã tỉnh, yết lệ đạo đồ; phụ thỉ mẫu khuyển chi phong, tự ô danh giáo; Chu lợi Giê-du chi thuyết, phục uế thính văn.
Bi kỳ cảm nhĩ hoành hành, ngã diệc khởi nhiên an tọa !
Dữ kỳ lâm thần thảng thốt, đồ di hậu sự chi ưu; hà như tảo cập đồ hồi, dụng hiệp tiên ưu chi nghĩa.
Phù! Khuyển dương nan tín, cầm độc nan thân.
Vị đốn Hán dương, Kim Tiêu Tống thỉ.
Ngã nhược khai môn nghênh khấu, miễn thủ dĩ tòng; bỉ tương vu mãng phục nhung, phệ tê hà cập!
Thỉnh quí liệt mộc tục hưu phong, tao phùng thịnh thế. Hoặc triều đình quan tước, dự tại giản tư, hoặc khoa mục trung nhân, tằng kinh hoa lục. Hoặc viên tử, ấm tử, quan thanh nhi ti lập giai ân;
Hoặc thí sinh, khóa sinh, thánh trạch nhi chương tương thức hóa. Dĩ chí phú gia vật lực, quân hoàng cực chi dụng phu. Tổng lý dương hào, tinh hoàng ân chi phổ cập.
Hữu từ khả chấp, Chu Công phương thả ưng chi; kiến nghĩa bất vi, Khổng Tử viết vô dũng giả.
Miễn dịch hàn thu chi tiết, dụng trinh kình thảo chi phong, chỉnh ngã bằng đồ, tiễn bi vũ dực.
Sử Tây tặc vô môn khả nhập, nhi dương di hà xứ đắc lai?
Lý Cương bãi triều, nhi Thái học nho sinh kiến cổ; Bào Tuyên hạ ngục, nhi bác sĩ chi tử đệ cử phan.
Huống sự thuộc an nguy; lự quan đắc thất.
Cổ kim cộng phẩn, thiên địa bất dung.
Phàm hữu trung nghĩa chi tâm, sinh nhi tự hứa.
Cẩu vi xã tắc chi lợi, tử thả bất từ.
Tuy kim nhật vi chỉ hành sự, dụng tri đắc tội ư cửu trùng;
Đệ hậu lai phục khuyết thính chu, do đắc tấu công ư liệt thánh.
Vô khả đồ ngôn, thủ vụ ngoại địch.
Chí như kế tương an xuất, lánh hữu hậu ngôn.
Cảm cáo đồng minh, nguyên phù minh giám.

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.