Bài phú cờ bạc
của Phạm Quang Sán

Hạn vận: cờ bạc là bác thằng bần.

(Cờ). — Ngán thay cờ bạc; lắm kẻ say sưa. Tam khoanh tứ đốm; bảy lọc năm lừa. Khi vui thì vỗ tay vào, chẳng chơi cũng thiệt; thấy của thì tối mắt lại, dẫu chết không chừa. Được thua cũng là, chẳng quản tiền trăm bạc chục; ruộng nương bán hết, vì chưng nay bạc mai cờ. Trên tay sẵn có đồng tiền, coi như cái rác; trong túi không còn một chữ, xác như thân vờ. Kẻ máu mê đã chót dúng chàm, biết dại vẫn còn cứ dại; bệnh truyền-nhiễm từ đâu lưu-độc, bao giờ mãi đến bây giờ.
(Bạc). — Chỉ vì: Đương độ phong lưu; quen mùi đài các. Nhân lúc thanh nhàn; bày ra đánh chác. Nghề chơi cũng lắm công phu; của trời những mong bốc vác. Ít-xì, sóc-đĩa, hết ngón nọ dở ngón kia; tổ-tôm, tài-bàn, thua canh này bày canh khác. Thông tôm lèo chi-chi thập-xích[1], khi lên trời cũng chiều lòng; theo khuôn dền cập lệch ba bay[2], được thể cũng dễ nói khoác. Được ăn thua chịu, nhất quận-công nhì không lều; tiền ngắn bạc dài, trong anh em ngoài cờ bạc. Tham thì thâm, lầm thì thiệt, quá vui chơi nên nỗi rạc rài; đen thua lận, trắng thua mòn, trót mê đắm thành ra gỡ-gạc.
(). — Há phải là ma; quyến dũ người ta. Suốt từ trên dưới; lan khắp gần xa. Mấy ông quan chức, họp tập đàn hòa; việc công thư-thả, bài lá chia ra. Mấy ông ký phán, trò chuyện lân-la; giả nghề kiếm-chác, gạ-gẫm các bà. Mấy thầy tổng lý, kỳ nát mọt già; nhân khi vào đám, chứa thổ trong nhà. Mấy anh keo kiết, túm năm tụm ba; nào người đứng cái, nào kẻ đầu gà. Khắp miền kẻ chợ nhà qưê, đâu đâu cũng vậy; quen thói cờ gian bạc lận, ai ai cũng là.
(Bác). — Một cuộc rủi may; năm canh xào xạc. Đen đỏ đỏ đen; được thua thua được. Tiền liền với ruột, anh những toan chụp cả em; của trọng hơn người, cháu cũng chẳng tha gì bác. Chơi cho thỏa chí, quản bao quan ngắn quan dài; mở cho sướng tay, phó mặc tiền xương tiền nạc. Mong những quay thua đáo gỡ, vay trả trả vay; chung-qui tiền mất tật mang, xác xơ xờ xạc. Cờ làm nước bí, sa cơ mất bộ anh hùng rơm; bạc gặp canh đen, thất-thế do tuồng công-tử xác. Vẫn tưởng gậy vông phá nhà gạch, bụng lăm-lăm chỉ muốn vơ vào; ngờ đâu bợm già mắc cò-ke, chơi mãi mãi hóa ra bệ-rạc.
(Thằng). — Tiền thầy bỏ túi; củ tỏi giắt lưng. Còn ăn hết nhịn; hơn chực kém đừng. Đã mê về sự cờ bạc; biết đâu là lẽ công bằng Cạn lưng vay cối vay chằng, lãi[3] bao cũng gật; nóng mắt mở liều mở lĩnh, của ai cũng chằng. Hơn chẳng bõ hao, đến nỗi mất cơ mất nghiệp; túng thì phải tính, sinh ra làm bậy làm xằng. Tham-lam chỉ vị hơi đồng, khôn rồn ra dại; danh-giá lâm vào đám bạc, ông cũng như thằng Bán vợ đợ con, gương Trọng-Quỳ[4] vẫn còn như tạc; ba que sỏ lá, đình Cổ-Lương[5] đã biết hay chăng?
(Bần). — Than ôi! Đổ-thần! Đổ-thần! làm hại quốc-dân. Bỏ hết công việc; mất cả làm ăn. Làm cho khốn khó; làm cho nhục nhằn. Làm cho cơn đen vận túng; làm cho nước yếu dân bần. Nay nhân lòng người biết hối; hồn nước tỉnh dần; mày đi nơi khác; chớ có lần-khân. Tiễn mày về Tàu; Quảng-đông cũng gần. Tiễn mày sang Nhật; đáp bến Hoành-tân[6]. Mày sang nước Mỹ, vàng bạc vô ngần. Mày sang nước Đức, khôn ngoan tuyệt trần. Vàng hương cúng tiễn; gạo muối đưa chân. Mượn tay giải ách; cắt duyên nợ nần. Lập tức đi ngay, chuông cảnh-tỉnh mấy câu sám-hối, nếu còn lẩn-quất, gươm văn-minh một nhát trừ căn.

   




Chú thích

  1. Lối đánh tổ-tôm hễ ván bài ù có 10 quân đỏ gọi là thập-xích hay thập-hồng được hơn tiền.
  2. Đánh sóc-đĩa 3 cái lẻ rồi đến cái chẵn, 3 cái chẵn rồi đến cái lẻ, gọi là ba bay.
  3. Lời.
  4. Trọng-Quì vì thua bạc phải bán vợ.
  5. Thất-nghiệp nằm đình Cổ-lương.
  6. Là một hải-cảng lớn nước Nhật-bản (Yokohama).


 

Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng tại các quốc gia có thời hạn bảo hộ bản quyền là cuộc đời tác giả và 80 năm sau khi tác giả mất hoặc ngắn hơn.


 
Tác phẩm không chắc chắn đã thuộc phạm vi công cộng tại Hoa Kỳ nếu nó được phát hành từ năm 1929 đến 1977. Để có phiên bản dùng được cho Hoa Kỳ, xem {{PVCC-1996}}.