Đời cách mạng Phan Bội Châu/Chính phủ Lâm thời Tân Việt Nam

CHÍNH-PHỦ LÂM THỜI TÂN VIỆT-NAM

NHƯNG rồi người Tây thình lình khai chiến với tướng-quân, làm cho cái thành-tích đồn điền của chúng tôi, phút chốc hóa ra tro bụi.

Thai ôi! Xông pha nhọc nhằn trải muôn ngàn dặm, mà chỉ gây nên một cõi mơ màng thất bại, có ai mưu sự mà gặp nông nỗi bất hạnh như tôi vậy chăng? Đó chẳng phải chứng cớ tài hèn trí mỏng là gì? Ai nối gót tôi mà dấy lên sau này, nên coi sự sai lầm của tôi mà thay đổi bước đường đi!

Lúc sắp đặt công cuộc đồn điền xong xã đâu đó rồi, đã là hạ tuần tháng 10.

Tôi lên xuống Hanoi gặp ông Ngô-đức-Kế và các đảng-hữu ở kinh ra, bàn tính các việc. Rồi lại đi Bắc-ninh, lấy nhà ông cử Nội-duệ làm nơi tụ họp bí-mật.

Hai ông Đặng-thái-Thân và Lê-Võ cùng ở Nghệ ra Bắc cùng tôi hội đàm quốc-sự.

Hồi này tiếng tăm vang dậy, lũ sói chồn bũa khắp tứ-vi, anh em đồng-chí sợ tôi rủi ro thì nguy, cho nên đều khuyên tôi phải gấp lìa khỏi bờ cõi nước nhà. Thế là tôi lại cáo biệt quốc dân mà xuất ngoại vậy.

Khoảng trung tuần tháng chạp, qua cửa ải Nam-quan, do đường Quảng-tây mà đến Ngô-châu, để xuống ghe Ngô-châu đi Hương-cảng.

Thượng tuần tháng hai năm Đinh-mùi tới nơi.

Bài văn khuyến học của tôi, truyền-bá rồi. Thiếu niên nước nhà trốn người Pháp mà xuất dương, tấp nập trên đường.

Trung-kỳ thời có đám Ng.-Siêu, Lâm-quảng-Trung.

Nam-kỳ thời có đám Đặng-bình-Thành, Hoàng-Hưng.

Bắc-kỳ có Đặng-tử-Mẫn, Đàm-Khanh v.v...

Họ tắm gội nắng mưa, xông pha sương gió, liều mạng đi tìm học vấn, nối gót theo chân nhau trên đường sang Quảng-đông và Hương-cảng.

Bởi vậy chúng tôi bèn đặt ra tại Hương-cảng một cơ-quan của đảng ta, để có nơi tiếp rước học sanh và thâu nhập bạc tiền cùng các giấy tờ bí-mật. Chúng tôi để ông Đặng-tử-Kính trông coi.

Tôi lại lập ra ở Hương-cảng một nhà hội gọi là Việt-nam Thương-đoàn Công-hội để giúp đỡ việc cho đảng. Công-hội này ông Võ-mẫn-Kiến làm người chủ-trì.

Lúc đó những bà con mình theo người Pháp qua làm ăn tại Hương-cảng, cũng động lòng vì nghĩa lớn, rủ nhau vô hội một cách hăm hở vô cùng. Chẳng phải vậy là dấu tỏ ra nhân-tâm nước mình chưa chết hẳn đó sao?

Chỉ tiếc rằng tôi thiếu tài bao bọc kém sức châu toàn, thành ra mầm giống vừa mới mọc lên thì gió mưa đã làm cho xiêu đổ. Việt-nam Công-hội chỉ có cái tên, rồi chưa được mấy năm, lại nhân bị can thiệp mà phải giải tán, đáng thương biết bao!

Từ mùa xuân Đinh-mùi đến mùa đông Mậu-thân, là thời kỳ thanh-niên ta sang du-học thịnh nhất. Trách-nhiệm tôi phải gánh vác trong thời kỳ này cũng khó nhọc bộn bề. Nào là chọn người vào học, nào là lo liệu giao thiệp; nào là vận-động bạc tiền; nào là liên lạc tình-nghĩa, đều là một tay tôi đứng mũi chịu sào hết thảy. Tôi nghiễm-nhiên như một quan công-sứ của nước Nam ở nước ngoài mà lại kiêm cả chức giám đốc kinh-lý nữa. Giếng sâu tay ngắn, việc lớn tài hèn, tôi vẫn lo sợ công việc tôi gánh vác không kham.

Đồng thời chúng tôi lại dựng lên Tân-Việt-Nam Cống-hiến, bắt chước làm như một chính phủ lâm thời của nước Nam ở hải ngoại. Tuy là cách thức sắp đặt còn sơ sài, nhưng có ảnh hưởng tới dân khí trong nước mau lắm.

Không bao lâu, có những việc ám-sát quan binh tây và dân rủ nhau xin thuế, thình lình nổi lên ở Trung-kỳ, Bắc-kỳ. Người Tây bèn đem cái toàn lực bắt cọp trói beo ra phấn-đấu với đảng chúng tôi.

Than ôi! người Pháp có kim tiền và võ lực mạnh hơn người mình ngàn lần muôn lần; họ lại khôn ngoan giảo-hoạt hơn quốc dân ta vạn-bội, vậy thì đảng chúng tôi không phải thất bại sao được?

Khoảng năm Thân, năm Dậu chính-phủ Pháp bỏ ra nhiều tiền nuôi bọn chồn tinh cáo già cho đi dò la xét bắt nghĩa-đảng. Số mật thám trong nước, sánh lại đông gấp hai số học-sinh du-học ở ngoài.

Phàm là đường lối mưu mô bí mật của đảng chúng tôi đem tiền và thông tin ra ngoài thế nào, chính-phủ Pháp nhờ có bọn do-thám mà biết ráo kẽ tóc chân răng, tìm cách phá hoại tan nát.

Phụ-huynh thân-tộc các đảng-viên phải khóc than giam-cầm trong ngục tối, còn bọn ác-thám hung-tra thì gầm thét nghinh-ngang khắp trong xứ. Người trong đảng ta lúc bấy giờ có muốn bỏ nước trốn ra ngoài, chỉ có cách làm như con trùng lõa-lồ thân-thể mà thôi.

Vì chính-sách người Pháp cốt làm tuyệt đường vận lương của ta, chận nghẹt lối cứu viện của ta, ấy là thủ-đoạn có một không hai của họ. Đồng thời lại vin lấy chỗ quan hệ của tờ hiệp ước Pháp-Nhật, mà giao thiệp với chính phủ Nhật, yêu-cầu bắt hộ người đầu đảng ta và giải tán học-sinh-đoàn Việt-nam ở Nhật.

Học-sinh-đoàn ta bị hai ách là kinh-tế hết phương và ngoại-giao bịt lối, thành ra giữa đám gió thảm mây sầu, anh em phải từ giã đất nước Nhật-Bản mà đi.

Chẳng phải vậy thôi, cho đến bao nhiêu sách vở truyền đơn tôi in ra để cổ-động quốc-dân, nay đều bị chính-phủ Nhật tịch-biên hết.

Tôi với Hội-chủ Kỳ-ngoại-hầu cũng bị chính-phủ Nhật buộc phải xuất-cảnh. Cảnh thất-bại của tôi lúc này thật là đau đớn, hình như con người bị lột da xé thịt không còn chỗ nào lành lặn nữa vậy.