Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ

Đề Trình xử sĩ Vân oa đồ - 題程處士雲窩圖
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

佳客相逢日抱琴
故山歸去興何深
香浮瓦鼎風生樹
月照苔磯竹滿林
洗盡塵襟花外茗
喚回午夢枕邊禽
日長隱几忘言處
人與白雲誰有心

Giai khách tương phùng nhật bão cầm ;
Cố sơn qui khứ[1] hứng hà thâm.
Hương phù ngõa đỉnh phong sinh thụ ;
Nguyệt chiếu đài ky trúc mãn lâm.
Tẩy tận trần khâm hoa ngoại mính ;
Hoán hồi ngọ mộng chẩm biên cầm.
Nhật trường ẩn kỷ vong ngôn xứ ;
Nhân dữ bạch vân thùy hữu tâm[2] ?

Khách quý gặp nhau hàng ngày ôm đàn gảy ;
Núi cũ trở về hứng sâu sắc làm sao !
Hương bốc ở đỉnh sành, trên cây gió sinh ;
Trăng soi trên ghềnh rêu, đầy rừng trúc mọc.
Để rửa sạch lòng trần, có chè ngoài hoa ;
Để gọi tỉnh mộng buổi trưa, có chim bên gối.
Ngày dài tựa ghế quên cả nói ;
Người với mây trắng, ai là có tâm tình ?

   




Chú thích

  1. Qui khứ: về đi, về quách không ở nữa
  2. Tác giả hỏi « Người với đám mây trắng ai là hữu tâm ai là vô tâm ». Ý tác giả muốn nói chưa chắc đám mây trắng kia đã là vô tâm (Đào Tiềm có câu thơ: Vân vô tâm dĩ xuất tụ = Mây vô tâm ngẫu nhiên mà bay ra khỏi thung lũng), hay chính người cũng vô tâm. Vô tâm là không để lòng đến cái gì, cứ theo tự nhiên