Đề Từ Trọng phủ Canh ẩn đường

Đề Từ Trọng phủ Canh ẩn đường - 題徐仲甫耕隱堂
của Nguyễn Trãi
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

去怕繁花沓軟塵
一犁岩畔可藏身
商家令佐稱莘野
漢世高風仰富春
松菊猶存歸未晚
利名不羨隱方真
嗟余久被儒冠誤
本是耕閑釣寂人

Khứ phạ phiền hoa đạp nhuyến trần ;
Nhất lê nham bạn khả tàng thân.
Thương gia lệnh tá xưng Sằn dã[1] ;
Hán thế cao phong ngưỡng Phú xuân[2].
Tùng cúc do tồn qui vị vãn ;
Lợi danh bất tiển ẩn phương chân.
Ta dư cửu bị nho quan ngộ[3] ;
Bản thị canh nhàn điếu tịch[4] nhân.

Sợ chốn phiền hoa đạp bụi bặm mềm dịu mà phải bỏ ;
Với một cày ở bậc đá có thể ẩn thân được.
Khen ngợi người phò tá giỏi của nhà Thương ở đất Sằn-dã ;
Ngưỡng mộ phong thái cao thượng của (Nghiêm Quang) đời Hán ở đất Phú-xuân.
Tùng cúc hãy còn, ta về chửa muộn ;
Lợi danh không thèm, ẩn mới đúng hơn.
Thân ta bị cái mũ nhà nho đánh lừa đã lâu ;
Vốn ta là người cày (trong thanh) nhàn câu (trong hiu) quạnh.

   




Chú thích

  1. Sằn dã: Y Doãn giúp vua Thang nhà Thương, vốn cày ở Sằn dã, vua Thang ba lần mời mới ra, giúp Thang đánh Kiệt, xây dựng nhà Thương
  2. Phú xuân: Nghiêm Quang vốn là họ Trang, bạn học với Lưu Tú (Hán Quang Vũ), khi Quang Vũ làm vua, đổi họ tên ẩn ở Phú xuân, Quang Vũ thân hành đến thăm và mời cũng không chịu ra giúp. Người ta có câu rằng: « Đồng giang nhất ty, phò Hán cửu đình », nghĩa là « Một sợi tơ câu ở Đồng giang, mà đỡ được chín đỉnh của nhà Hán », ý nói giữ tiết thanh cao như thế chính là giúp nhà Hán đó
  3. Đỗ Phủ trong bài thơ « Phụng tặng Vi Tả thừa » có câu: « Nho quan đa ngộ thân », nghĩa là « Mũ nhà nho lầm mình nhiều »
  4. Canh nhàn điếu tịch: nghĩa là « Cày trong cảnh nhàn hạ, câu trong cảnh thanh vắng ». So với câu « Câu quạnh cày nhàn dưỡng mấy thân » bài 29 trong Quốc âm thi tập