Xuân tiêu lữ thứ - 春宵旅次
của Nguyễn Du

Tác giả làm bài này khi lên Lạng Sơn để đón sứ thần nhà Thanh năm Giáp Tý (1805).

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

蕭蕭蓬鬢老風塵,
暗裡偏驚物候新。
池草未闌千里夢,
庭梅已換一年春。
英雄心事荒馳騁,
名利營場累笑顰。
人自蕭條春自好,
圍城城下一沾巾。

Tiêu tiêu bồng mấn[1] lão phong trần,
Ám lý thiên kinh vật hậu tân.
Trì thảo[2] vị lan thiên lý mộng,
Đình mai[3] dĩ hoán nhất niên xuân.
Anh hùng tâm sự hoang trì sính[4],
Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần[5].
Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo,
Đoàn Thành[6] thành hạ nhất triêm cân.

Mái tóc bạc phơ, cứ phải phong trần mãi,
Thấy thời tiết, cảnh vật đổi thay, lòng riêng những kinh sợ.
Ngoài nghìn dặm chưa tan giấc mộng "cỏ bờ ao".
Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa.
Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong.
Đường danh lợi làm lụy đến sự khóc cười.
Người thì tiều tụy, nhưng xuân vẫn chứ đẹp.
Đứng dưới Đoàn Thành, nước mắt đẫm khăn.

   




Chú thích

  1. Bồng mấn: Mái tóc rối bời như cỏ bồng
  2. Trì thảo: chữ lấy trong câu thơ của Tạ Linh Vận đời Tấn: "Trì đường sinh xuân thảo". Nguyên Tạ Linh Vận có người em học tên là Tạ Huệ Liên mới 10 tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường tán thán và nói rằng khi ngồi cùng Huệ Liên thì thế nào cũng nghĩ được thơ hay. Một hôm Linh Vận ngồi nơi bờ ao nghĩ thơ, nhưng không tìm ra tứ. Về nhà nằm ngủ chiêm bao thấy Huệ Liên, thức dậy làm được câu "Trì đường sinh xuân thảo", rất lấy làm đắc ý. Câu chuyện này truyền ra trở thành một giai thoại trong làng thơ
  3. Đình mai: Dùng mai trong thơ, một là để tả xuân, hai là để ngụ ý ở nơi trạm để đợi sứ, mượn ý câu thơ Đường: "Chiết mai phùng dịch sứ". Nguyễn Du đến Lạng Sơn mùa Đông năm Quý Hợi (1804) và làm bài "Xuân tiêu" năm Giáp Tý (1805), nên mới nói là "Dĩ hoán nhất niên xuân"
  4. Trì là ngựa chạy mau. Sính cũng là ngựa chạy mau. Hai chữ ghép lại thành nghĩa là dong ruổi
  5. "Tiếu" là cười. "Tần" là nhăn mày
  6. Đoàn Thành: Tên riêng của thành Lạng Sơn. Có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành hình vòng tròn