Việt thi/III-26
LÊ THÁNH-TÔNG
1. ĐỀ MIẾU BÀ TRƯƠNG Ở NAM-XANG
Nghi-ngút đầu ghềnh tỏa khói hương.
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vừng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ-phàng.
2. QUA ĐÈO-NGANG
Bãi thẳm ngàn xa cảnh vắng teo,
Đèo Ngang lợi bể nước trong veo.
Thà-là cúi xuống cây đòi sụt,
Xô-xát trông lên sóng muốn trèo.
Lảnh-chảnh đầu mầm chim vững tổ,
Lanh-đanh cuối vụng cá ngong triều.
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả,
Non nước trông qua vẫn bấy nhiêu.
CHÚ-THÍCH.— Thà-là hay tha-la là nói cành cây sà xuống thấp.
3. THỢ CẠO
Mở mặt trần-gian ức vạn người,
Đông tây nam bắc phải làm tôi.
Vài thanh gươm bạc xông trăm trận,
Mấy chiếc qua vàng đóng một nơi.
Kẻ trọng tam đồ hay bá gáy,
Người cao nhất-phẩm cũng cầm tai.
Trăm năm tiêu sẵn kho vô tận,
Xếp túi kiền-khôn chỉ việc ngồi.
4. THẰNG MÕ
Mõ này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn-cán ra tay chẳng phải chơi.
Mộc-đạc vang lừng trong bốn cõi,
Kim-thanh rền-rĩ khắp đòi nơi.
Trẻ già thảy thảy đều nghe lệnh,
Làng nước ai ai phải cứ lời.
Trên dưới quyền hành tay cất đặt,
Một mình một chiếu thảnh-thơi ngồi.
CHÚ-THÍCH.— Bài thơ này có nơi chép như sau này:
Gớm thay lớn tiếng lại dài hơi,
Làng nước ưng bầu chẳng phải chơi.
..............
..............
Đâu đâu đấy đấy đều nghe lệnh,
Xã xã dân dân phải cứ lời.
..............
Một mình một cỗ thỏa lòng xơi.
Mộc-đạc là mõ gỗ.— Kim thanh là tiếng chuông, chữ trong sách Luận-Ngữ.
5. TỚI ĐÂY
Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười,
Sắc không, tuy Bụt, hãy lòng người.
Chày kình môt tiếng tan niềm tục,
Hồn bướm năm canh lẩn sự đời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào Cực-lạc là đâu tá?
Cực-lạc là đây chín rõ mười.
CHÚ-THÍCH.— Tương-truyền rằng bài thơ này khi vua Thánh-tông đến chùa Ngọc-hồ nghe người tiểu-nữ ngâm hai câu lục-bát này:
Đến đây, thấy cảnh thấy người,
Tuy vui đạo Phật chưa nguôi lòng trần.
Vua nhân đó mà làm bài thơ này, nhưng hai câu kết không ăn nghĩa với những câu trên.
6. NGƯỜI ĐÁNH GIẬM
Rạng ngày cơm nước cất quân mau,
Khí nghệ tùy thân đủ trước sau.
Cán lọng giữa trời người đứng đó,
Vòng cung đạp đất thấy ai đâu.
Những phường trê-chuối đều sầy vảy,
Mấy lũ đòng-dong cũng dập đầu.
Dẹp nước yên rồi, về kẻ chợ,
Bấy giờ các chị mới tranh nhau.
7. NGƯỜI ĂN-MÀY
Chẳng phải ăn đong chẳng phải vay,
Lộc trời để lại được ăn-mày.
Hạt châu chúa cất cao ngang mặt,
Bệ ngọc tôi từng đứng chấp tay
Nam bắc đông tây đều tới cửa.
Trẻ già lớn bé cũng kiêng thầy.
Đến đâu dẹp hết loài muông cẩu,
Thu cả kiền-khôn một túi đầy.
CHÚ-THÍCH.— Bài thơ này có bản chép sau này:
............
Khắp hòa thiên-hạ đến ăn mày,
Hạt châu chúa cất trao ngang miệng.
..............
..............
..............
Đến đâu sẵn có lâu-đài đấy,
Bốn bể thu về một túi đầy.
8. BỒ NHÌN
Quyền trọng ra uy trấn cõi bờ,
Một lòng vì nước há vì dưa.
Xét soi trước mặt đôi vầng ngọc,
Phe-phẩy trên tay một lá cờ.
Dẹp giống chim muông xa phải lánh,
Dễ quân cày cuốc gọi không thưa.
Mặc ai nhảy nhót đường danh-lợi,
Ơn nước đầm-đìa hạt móc mưa.
CHÚ-THÍCH.— Đôi vầng ngọc là mặt trời và mặ trăng.
9. CỐI XAY
Thóc lúa kho trời vẫn sẵn đầy,
Tạc thành cái cối để mà xay.
Thu tàng châu-ngọc tư mùa đủ,
Chuyển vận âm-dương một máy xoay.
Đất phẳng nổi đùng cơn sấm động.
Vừng to vung té hạt mưa bay.
Đem tài xoay-xỏa ra tay giỏi,
Lợi dụng cho dân đủ tháng ngày,
10. CÁI ĐIẾU
Đã nên danh-giá nhất trên đời,
Kẻ kính người nâng khắp mọi nơi.
Đầu mũ, lưng đai, ngồi chểnh-chẹn,
Lòng sông, dạ bể, xiết xa khơi.
Tiếng kêu réo sấm lừng vang đất,
Hơi thở tuôn mây dễ ngất trời.
Một trận ra oai, trong nước lộn,
Ải Nam khói tắt, Bắc chìm hơi.
11. CÁI XE ĐIẾU
Vốn ở lâu-đài đã bấy nay,
Khi lên dễ khiến thế-gian say.
Lưng in chính-trực mười phân thẳng,
Dạ vẫn hư-linh một tiếng ngay.
Động sóng tuôn mây khi chán miệng,
Nghiêng trời lệch đất thủa buông tay.
Dưới từ dã-lục trên đền đỏ,
Ai chẳng quen hơi mến đức này.
CHÚ-THÍCH.— Hai bài Cái điếu và Cái xe điếu này có người cho là của Vô danh thị và có một vài chỗ khác nhau, như hai câu kết bài Cái điếu:
Một trận ra oai, trong nước lặng,
Ải nam khói tắt, ngạc chìm hơi.
Bài Cái xe điếu thì câu đầu.
Vốn ở lâm-tuyền đã bấy lâu.
12. CÁI CHỔI
Lời chúa vâng truyền xuống ngọc giai,
Cho làm lệnh tướng quét trần ai.
Một tay vùng-vẫy trời tung gió,
Bốn cõi tung-hoành đất sạch gai.
Ngày vắng, rủ mây cung Bắc-Hán,
Đêm thanh, tựa nguyệt chốn lâu-đài.
Ôm lòng gốc rễ, lâu càng dãi
Mòn-mỏi lưng còn một cái đai.
CHÚ-THÍCH.— Dãi là phơi bày ra, rõ ra.