Thể song-thất lục-bát

Sau lối thơ lục-bát, đến lối thơ song-thất lục-bát là người ta hay dùng hơn cả. Nay lấy mấy câu ở đầu truyện Cung-oán ngâm-khúc làm mẫu:

Trải phách quế gió vàng hiu-hắt,
Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng.
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
Duyên đã may, cớ sao lại rủi,
Nghĩ nguồn-cơn dở-dói sao đang.
Vì đâu nên nỗi dở-dang,
Ngẫm mình mình lại nên thương nỗi mình.

1. Luật bằng trắc.— Thơ song-thất lục-bát có hai câu thất đi với hai câu lục-bát.

a) Câu thất trên, tiếng thứ ba trắc, tiếng thứ năm bằng và vần, tiếng thứ bảy trắc và vần:

Trải phách quế gió vàng hiu-hắt.

Song tiếng thứ ba có thể là tiếng bằng, khi nào không có đối với câu dưới, như:

Duyên đã may, cớ sao lại rủi.

Hay là:

Được hay thua, hỏi làm chi vội.

b) Câu thất dưới, tiếng thứ ba bằng, tiếng thứ năm trắc và vần, tiếng thứ bảy bằng và vần:

Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng.

Ta chớ tưởng thơ song-thất cũng như thơ thất-ngôn luật bên lối thơ Hán-văn, vì luật bằng trắc trong thơ song-thất chữ thứ ba, thứ năm, mà ở trong thơ thất-ngôn luật, thì chữ thứ ba, thứ năm lại có thể theo lệ bất luận.

Hai câu lục và bát ở dưới, theo luật bằng trắc thơ lục-bát.

2. Vần.— Thơ song-thất lục-bát có vần trắc ở hai câu thất, một vần ở cuối câu thất trên, một vần ở chữ thứ năm câu thất dưới:

Trải phách quế, gió vàng hiu-hắt,
Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng.

Cuối câu thất dưới là tiếng bằng và vần với tiếng cuối câu lục tiếp sau:

Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng.
Oán chi những khách tiêu phòng,

Câu lục và câu bát theo vần thơ lục-bát:

Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.

Tiếng thứ năm câu thất tiếp sau, vần với tiếng cuối câu bát đứng trên:

Mà xui phận bạc nằm trong má đào,
Duyên đã may, cớ sao lại rủi,

3. Đối.— Thơ song-thất lục-bát có hai câu thất bảy chữ, cho nên khi người ta muốn đối, thì có thể dùng bình-đối:

Cầu thệ-thủy, ngồi trơ cổ độ,
Quán thu-phong, đứng rũ tà huy. (Cung-oán)

Hay là:

Chiếc ngựa trắng đi về góc bể,
Đàn chó xanh lẻ-tẻ chân trời. (Cao bá Nhạ)

Nỗi khổ ở trần-gian (Cung-oán)

Ngẫm nhân-sự cớ chi ra thế,
Sợi xích-thằng chi để vương chân.

Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên.
Kìa thế-cục như in giấc mộng,
Máy huyền-vi mở đóng khôn lường.
Vẻ chi ăn-uống sự thường,
Cũng còn tiền-định khá thương lọ là!
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết,
Hình thì còn, bụng chết đòi nau.
Thảo nào khi mới chôn dau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra.
Khóc vì nỗi thiết-tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu.
Trắng răng đến thủa bạc đầu,
Tử sinh kinh cụ làm nau mấy lần.
Cuộc thành-bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng-thông như đúc buồng gan.
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.
Gót danh-lợi bùn pha sắc sạm,
Mặt phong-trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù-thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
Mùi tục-vị, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế-đồ, gót rỗ kỳ khu.
Sóng cồn cửa bể nhấp-nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô-xô mặt ghềnh.
Trẻ tạo-hóa đành-hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Lò cừ nung-nấu sự đời,
Bức tranh vân-cẩu vẽ người tang-thương.
Đền vũ-tạ, nhện vương cửa mốc,
Thú ca-lâu, dế khóc canh dài.

Đất bằng bỗng rấp chông gai,
Ai đem nhân-ảnh nhuộm mùi tà dương?
Mùi phú-quí nhử làng xa-mã,
Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh.
Giấc Nam-kha khéo bất bình,
Bầng con mắt dậy, thấy mình tay không,
Sân đào-lý dàm lồng man-mác,
Nền đỉnh-chung nguyệt gác mơ-màng,
Cánh buồm bể hoạn mênh-mang,
Cái phong-ba khéo cợt phường lợi-danh.
Quyền họa-phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện-nghi chẳng trả phần ai.
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ mờ nhân-ảnh như người đi đêm.
Hình mộc-thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm-ngư ủ vũ ê phong.
Tiêu-điều nhân-sự đã xong,
Sơn-hà cũng ảo, côn-trùng cũng hư.
Cầu thệ-thủy ngồi trơ cổ độ,
Quán thu-phong đứng rũ tà huy.
Phong-trần đến cả sơn khê,
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Tuồng ảo-hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau.
Trăm năm nào có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu rì rì.
Mùi tục-lụy dường kia cay-đắng.
Vui chi mà đeo-đẳng trần duyên.
Cái gương nhân-sự chiền chiền,
Liệu thân này với cơ thiền phải nao?
Thà mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong

Đa-mang chi nữa đèo-bòng,
Vui gì thế-sự mà mong nhân-tình.
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên.
Thoát trần một gót thiên nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
Ý cũng rắp ra ngoài đào-chú,
Quyết lộn vòng phu-phụ cho cam.
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào.
Hẳn túc-chướng làm sao đây tá,
Hay tiền-nhân hậu quả xưa kia.
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
Kìa điểu-thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo-bòng
Có âm dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên-địa cũng vòng phu-thê.
Đường tác-hợp trời kia dun-dủi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân-tình.
Thôi thôi, ngảnh mặt làm thinh,
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao.